TIN TỨC

fanpage

Thống kê truy cập

  • Online: 15
  • Hôm nay: 812
  • Tháng: 5174
  • Tổng truy cập: 5150439
Chi tiết bài viết

Bài bào chữa Phúc Thẩm

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

 

Tỉnh Long An , ngày 22   tháng 3 năm 2011

 

BẢN LUẬN CỨ

         Kính thưa Hội Đồng xét xử phúc thẩm,

Tôi là Luật sư Nguyễn Minh Trí  thuộc Đoàn Luật sư TP.HCM, theo yêu cầu của thân chủ tôi là nguyên đơn bà Phan Thị Trước và được sự chấp nhận của Quí Tòa qua giấy chứng nhận số /

  Hôm nay tại phiên Tòa Phúc thẩm dân sự nầy, tôi xin phép được thực hiện trách nhiệm bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của thân chủ tôi về  Bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân  Huyện  Châu Thành,Tỉnh Long an  và  đơn kháng cáo của  cả hai nguyên và  Bị đơn dân sự.

 Xin quý Tòa cho phép tôi được phát biểu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn Phan thị Trước như sau :

     Qua nghiên cứu hồ sơ và tranh luận công khai tại phiên Tòa hôm nay tôi xét thấy vụ án này bác quyền thừa kế đối với ông Để là hoàn toàn phù hợp với các quy định của pháp luật .

Thứ nhất  Tài sản do bà Minh để lại gồm :

a/ Căn nhà số 13, đường Phan Văn Đạt, khóm I, thị trấn Tầm Vu, huyện Châu Thành, tỉnh Long An  có diện tích có diện tích 105,20 m2, số thửa 89, tờ bản đồ 1K, đất loại ODT được UBND tỉnh Long An cấp GCNQSHNỞ và QSDĐỞ số 00090 ngày 9/1/1998.

           Các tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng khi đăng ký quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ và chồng theo quy định tại khoản 2 Điều 27 của Luật Hôn nhân và gia đình bao gồm : nhà ở, quyền sử dụng đất và những tài sản khác mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu.

           Đây là tài  saûn riêng của bà Minh do căn nhà được cất từ năm 1982 là đúng thời điểm ông Để và bà Minh bỏ nhau, bà Minh bị ông Để đuổi ra khỏi nhà, số tiền bà Minh mua đất cất nhà là do tiền  của cha mẹ cho, tiền bà Minh dành dụm trước lúc về với ông Để. 

 Theo Luật HNGĐ 1986

®iÒu 15.. ViÖc mua, b¸n, ®æi, cho, vay, m­în, vµ nh÷ng giao dÞch kh¸c cã quan hÖ ®Õn tµi s¶n mµ cã gi¸ trÞ lín th× ph¶i ®­ưîc sù tháa thuËn cña vî, chång .

®iÒu 16. ®èi víi tµi s¶n mµ vî hoÆc chång cã tr­íc khi kÕt h«n, tµi s¶n ®­ưîc thõa kÕ riªng hoÆc ®ư­îc cho riªng trong thêi kú h«n nh©n th× ng­êi cã tµi s¶n ®ã cã quyÒn nhËp hoÆc kh«ng nhËp vµo khèi tµi s¶n chung cña vî chång

LuËt  HNGĐ n¨m 2000.

   2- Trong trư­êng hîp tµi s¶n thuéc së h÷u chung cña vî chång mµ ph¸p luËt quy ®Þnh ph¶i ®¨ng ký quyÒn së h÷u th× trong giÊy chøng nhËn quyÒn së h÷u ph¶i ghi tªn cña c¶ vî chång.

  Căn nhà số 13, đường Phan Văn Đạt, khóm I, thị trấn Tầm Vu,chi có tên Bà Minh chứng tỏ là tài sản riêng của Bà Minh .

b/ Đất lúa có diện tích 4.1085m2 thuộc thửa 636, 637 tờ bản đồ số 1được UBND huyện Châu Thành cấp ngày 18/9/1996 số 285/QSDĐ/0805-LA , tọa lạc tại xã Dương Xuân Hội, huyện Châu Thành. Đất lúa này là do cha mẹ bà Minh tặng cho trước lúc về với ông Để năm 1981, đó là tài sản riêng của bà Minh được quy định tại Điều 32 Luật HN&GĐ tài sản có trước khi kết hôn , tài sản được tặng cho riêng. Và Đây cũng tài sản ghi tên Bà Minh .

  II/ Xin HĐXX bác quyền thừa kế của ông Để với lý do là trong hồ sơ vụ kiện Ông Để chưa   chứng minh được hôn nhân thực tế :

Theo nghị quyết 01/1988 của HĐTPTATC thì giữa ông Để và bà Minh không có chung sống như vợ chồng do họ không có đăng ký kết hôn, không có tài sản chung, không có con chung, không cùng chung hộ khẩu hay tạm trú để chứng minh ông Để có ở tại số nhà 13 Phan Văn Đạt, Khóm I, TT Tầm Vu, Châu Thành.

Nghị quyết 01/1988 của HĐTPTATC  

c.1. Người đang có vợ hoặc có chồng là

- Người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn;

- Người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn (trường hợp này chỉ áp dụng từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực cho đến trước ngày 01/01/2003).”

1/   Ông Để và Bà Minh có chung sống như vợ chồng hay không ?

theo Điều 51 và 48 BLDS 1995. Tôi xin thưa  là áp dụng luật trong trường hợp này là BLDS 1995 vì mọi quan hệ dân sự giữa Bà Minh ,Ông  Để … là trước  2005 .Và khái niệm về cư trú ,chung sống  của hai bộ luật DS 1995 và 2005 có  khác nhau . Trước 2005  khái niệm nơi cư trú ,chung sống  chủ yếu dựa vào yếu tố hành chính ,dựa trên địa điểm cá nhân đăng ký hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú .Do đó khi nói có chung sống  hay không chung sống như vợ chồng thì có liên quan đến hộ khẩu –trừ trường hợp đã có giấy đăng ký kết hôn hoặc có con chung ghi trong khai sinh thì ở đâu cũng được .  Trường hợp Bà Minh Ông Để là trường hợp không có đăng ký kết hôn  do vậy việc phải xét xem có chung sống hay không chung sống theo luật DS 1995 là cần thiết . Ông  Để   cần phải đưa ra  những chứng cứ thật về việc chung sống như vợ chồng trước 2005 . Ví dụ đứng tên tài sản chung ,giấy tờ điện nước .v.v  

 Xin đọc §iÒu 51 BLDS 1995. N¬i c­ tró cña vî, chång

N¬i c­ tró cña vî, chång lµ n¬i vî, chång sèng chung vµ ®­îc x¸c ®Þnh theo quy ®Þnh t¹i §iÒu 48 cña Bé luËt nµy.

Vî, chång cã thÓ cã n¬i c­ tró kh¸c nhau, nÕu cã tho¶ thuËn.

§iÒu 48. N¬i c­ tró

1- N¬i c­ tró cña mét c¸ nh©n lµ n¬i ng­êi ®ã th­êng xuyªn sinh sèng vµ cã hé khÈu th­êng tró.

Trong tr­êng hîp c¸ nh©n kh«ng cã hé khÈu th­êng tró vµ kh«ng cã n¬i th­êng xuyªn sinh sèng, th× n¬i c­ tró cña ng­êi ®ã lµ n¬i t¹m tró vµ cã ®¨ng ký t¹m tró.

          Về hộ khẩu : Nghị Định chính phủ số 104-cp, ngày 27 tháng 6 năm 1964 ban hành điều lệ đăng ký và quản lý hộ khẩu

Điều 4: Việc đăng ký và quản lý hộ khẩu lấy hộ làm đơn vị. Một hộ gồm những người ăn ở chung với nhau trong một nhà riêng…..

Theo Nghị định số 51 ký ngày 10 tháng 5 năm 1997 của Chính phủ Việt Nam và Thông tư số 06-TT/BNV (C13), ký ngày 20 tháng 6 năm 1997 của Bộ Nội vụ Việt Nam,: Sổ hộ khẩu gốc được lập theo khu vực dân cư của đơn vị hành chính phường, xã, thôn, xóm, bản, đường phố,.. và là tài liệu pháp lý, làm cơ sở để xác nhận việc cư trú của công dân, là căn cứ để điều chỉnh sổ hộ khẩu gia đình, giấy chứng nhận nhân khẩu tập thể và một số việc khác

 

        Trong hồ sơ vụ kiện có bản hộ khẩu ghi rỏ Ngày 5/1/2005 bà Minh chết thì đến ngày 15/3/2005 cách sau 02 tháng 10 ngày  ông Để mới chuyển hộ khẩu của mình về số nhà 13 Phan Văn Đạt.Tiếp đó , làm thủ tục hành chính thừa kế căn nhà này .

          Thử hỏi lúc bà Minh còn sống sao ông Để không chuyển hộ khẩu về chung với bà Minh .Phải chăng vì đâu phải vợ chồng mà chuyển về . Án sơ thẩm dựa trên dấu hiệu lời khai Ông Để -Bà Minh có làm hôn lể 1982 nhưng sau đó chia tay  và dấu hiệu trước khi Bà Minh mất có lui tới nhà Bà Minh  để từ đó kết luận có quan hệ hôn nhân thực tế là không   phù hợp với pháp luật .

          Trường hợp quan hệ hôn nhân thực tế  mà không có ĐKKH trước 1/ 3/1987  hầu hết là đều có những dấu hiệu chứng cứ rõ rệt  như con chung ,đứng tên tài sản chung ,hoặc trên hộ khẩu ghi chồng ( vợ) .. Tại Tòa Long An cũng đã  xét xử nhiều vụ .Nhưng trường hợp quan hệ giữa Ông Để -Bà Minh có hay không quan hệ vợ chồng là một trường hợp rất cá biệt  ,tương đối khó xác định . Bởi vì không có con chung ,không  đứng tên tài sản chung  và hộ khẩu không ghi  chồng ( vợ ) thì làm sao xác định có quan hệ chung sống – nói chi là chung sống như vợ chồng .

           Sau khi phát sinh tranh chấp thì một nhóm gia tộc bà con quan hệ chứng nhận  là có quan hệ vợ chồng  một nhóm thì chứng nhận ngược lại . Trong hồ sơ vụ kiện :một bên trong gia tộc làng xóm chứng nhận Ông Để  sống chung như vợ chồng nhưng lại  có một bên phủ nhận . Tất cả đều là lời khai chứng sau khi tranh chấp .và UBND thị trấn xác nhận là chung sống như vợ chồng  vừa không đúng  mẫu theo qui định về hành chánh hộ tịch tư pháp lại  vừa không đúng thẩm quyền .UBND chỉ chứng thực chử ký người  cam kết chứ không thể chứng nội dung hộ tịch trừ khi UBND  có lưu sổ hộ tịch Đăng ký kết  hôn .

      

 

           Nếu  công nhân Ông Để là chồng Bà Minh căn cứ vào những lời khai  của  một số người mà bỏ qua không tính đến những nhân chứng phản diện thì có đúng hay không ?

       Nếu công nhận Ông Để là chồng Bà Minh mà không xác minh thông qua cơ quan công an về việc hai người này có chung sống theo  Điều 48 và Điều 52 Bộ luật dân sự  1995  và theo Điều lệ về đăng ký quản lý nhân hộ khẩu  thì có đúng không ?

       Nếu công nhận Ông Để là chồng Bà Minh mà không xác minh về tình trạng hôn nhân của mỗi  người vào năm 1982 thì có đúng với pháp luật không ? Bởi vì muốn kết luận  Ông Đề  có là chồng Bà Minh hay không  còn phải xem lại  . Nếu có làm hôn lể thì  còn phải xét  lúc đó Ông Để  có vợ  hay không , vợ còn sống hay mất ,nếu đã mất thì giấy khai tử  ?  Sau  khi mất Ông Để có chung sống như vợ chồng với ai khác không ? Bởi vì  nếu vậy thì vi phạm luật hôn nhân gia đình .

 ( Xin lưu ý là trong hồ sơ không có các chứng từ vừa nêu )

       Hai người “ sống chung “ như vợ chồng  gần 23 năm nhưng  không có con chung và không có tài sản  ghi tên chung , không có chứng minh là chung hộ khẩu ( thường trú ,tạm trú )-nhà Bà Minh không có Ông Để ( ghi là chồng ) và ngược lại Hộ khẩu nhà Ông Để không có tên Bà Minh ( ghi là vợ ).

             Vấn đề  thẩm quyền,thủ tục trình tự    xác nhận  quan hệ vợ chồng  đối với người kết hồn trước 3/7/1987  mà không có con chung ,không có chung sống như vợ chồng  theo qui định về hộ khẩu  là vấn đề phức tạp . Không thể căn cứ theo bất kỳ bên nào trong gia tộc  để kết luận mà  phải  làm đúng qui định luật pháp .

         Trong khi  bị đơn chưa chứng minh được  đúng theo pháp luật  thì đề nghị  Tòa án   bác  quan hệ hôn nhân .

          Vì những lẽ trên nên ông Để không  là đồng thừa kế của bà Minh do đó đề nghị Tòa chấp nhận bà Trước là người thừa kế DUY NHẤT khối tài sản do bà Minh để lại .

      Căn cứ vào các văn bản pháp luật  và tài liệu có trong hồ sơ ,Là luật sư tôi không thể nào  cho rằng Ông Để là chông Bà Minh  và do đó  cho rằng Ông Để là người thừa kế di sản .

          Bàn án sơ thẩm mặc dầu chưa xác quyết chính xác quan hệ hôn nhân ,thừa kế nhưng có  kết quả về mặt hòa giải tình thân gia tộc .

          Thân chủ của tôi mong muồn  có sự hòa giải  trong việc xét xử này  một cách có lý có tình . Việc này thuộc quyền của Tòa Phúc thẩm  quyết định .

Tôi xin chân thành cảm ơn HĐXX đã lắng nghe .

Các bài viết khác

Luật sư tư vấn miễn phí

Gọi ngay
0902818158- 0906834543
0906834543
0902818158

Tin pháp luật

CÁC ĐỐI TÁC

  • Nhà Đất Phúc An Khang
  • The Diplomat
  • The NewYork Review of Book
  • CogitAsia
  • Reuters
  • Viet Studies
  • The NewYork Times
  • TIME
  • Bloomberg Bussiness