TIN TỨC

fanpage

Thống kê truy cập

  • Online: 11
  • Hôm nay: 178
  • Tháng: 8017
  • Tổng truy cập: 5153282
Chi tiết bài viết

Bài biên minh vụ án sản xuất làm giả phân bón gởi bo trưởng bộ congan

 

 Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam

Độc lập- Tự do- Hạnh phúc

------------

 

   TP. Hồ Chí Minh, ngày 28  tháng 12 năm 2009

 

                          

       Kính gửi:Đồng chí LÊ HỒNG ANH,BỘ TRƯỞNG BỘ CÔNG AN

                

Được yêu cầu của gia đình bị can  Lương  Huệ Đạt, Văn phòng Luật Sư Nguyễn Minh Trí thuộc Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí  Minh tham gia tố tụng với tư cách bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can Lương  Huệ Đạt.

Chúng tôi kính xin trình bày lên đồng chí Bộ trưởng ý kiến của mình về vụ việc như sau :

 

  1. I.                  Nhân thân bị can:

 

Lương  Huệ Đạt  Sinh : 01/08/1974

            CMND số : 023010172 cấp ngày 04/06/2009

Thường trú : 477/10/3/14 E Âu Cơ ,P Phú Trung ,Q Bình Tân . Dân tộc  Hoa

 Quốc tịch: Việt Nam.

Trình độ văn hoá: không biết đọc, viết  tiếng Việt chỉ biết ký tên và nghe nói thông thường .( kèm  xác nhận của gia ñình  )

Bản thân và gia đình thuộc thành phần nhân dân lao động.

Không có tiền án tiền sự.

 

        II. Phần nội  dung  

    

               Ngày 11/11/2009 Phòng CSĐT tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức   vụ (PC15), Công an TPHCM  bắt  bị can Lương Huệ Đạt và khởi tố bị can về tội  “ sản xuất hàng giả là phân bón theo Điều 158 BLHS ( Bộ luật hình sự) để điều tra làm rõ hành vi sản xuất phân bón giả

                 Qua nghiên cứu hồ sơ vụ việc và kiểm tra hiện trường kính xin  đề nghị đồng chí Thứ trưởng xem xét  các vấn đề sau đây :

                Căn cứ để khởi tố vụ án  được ghi trong  Lệnh bắt bị can để tạm giam số 832-04 như sau :

                 “Lương Huệ Đạt có hành vi mua phân bón Kali về pha trộn với một số hóa chất mua tại chợ Kim Biên, thành phân bón hàm lượng oxyt ka li có hàm lượng thấp hơn so với nhà sản xuất ,sau đó đóng vào bao mang nhãn  hiệu  giả “ TSC” của nhà nhập khẩu là Công ty Cổ phần Vật tư Kỹ thuật nông nghiệp Cần

   thơ ,nhằm tiêu thụ ,thu lợi bất chính cho cá nhân ,ngoài ra Đạt còn có hành vi tang trữ một số lượng rất lớn bao bì phân bón giả mang nhãn hiệu “V” của Công ty cổ phần Vinacam ,đã phạm vào Điều 158Bộ luật hình sự..”

 

      2. 1 /Trước hết ,về chứng cứ của vụ án theo Điều 63 BLTTHS  cơ quan tố tụng phải chứng minh  tội phạm bằng chứng cứ có thật và được thu thập theo trình tự ,thủ tục  của Luật Tố tụng hình sự .Cơ  quan  điều tra trong vụ án này đã dựa vào  những thông tin thu thập theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính  ,vào biên bản kiểm tra hành chính chứ không phải vào biên bản điều tra  qui định tại Bộ luật Tố Tụng Hình Sự ,pháp lệnh điều tra hình sự .Căn cứ vào những thông tin thu được từ kiểm tra hành chính  để làm chứng cứ khởi tố vụ án là vi phạm nghiệm trọng Tố tụng hình sự . Do vi phạm về trình tự  thủ tục thu thập chứng cứ mà nội dung  vụ án đã  không tuân thủ  Luật hình sự  nước CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM thể hiện như dưới đây .

      2. 2/ Khối lượng gọi là hàng tạm giữ tại C4/20D ấp 3, xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh có phải là hàng hóa hay chỉ là bán thành phẩm thử nghiệm trong giai đoạn  chế thử để đem đi thử  nghiệm .  Gia đình Lương Huệ Đạt có trưng ra một văn bản Phiếu thử nghiệm  số KT 3-8977HO9 ngày 29/07 /2009  mẫu Phân bón  của hộ Lương Huệ Đạt .Theo gia đình  Lương Huệ Đạt trình bày thì vào đầu năm 2009 ,do khủng khoảng kinh tế  ảnh hưởng  mặt hàng phế liệu phế phẩm giảm 50- 70% về  giá trị và doanh số . Là  người kinh doanh Đạt có ý định chuyển sang kinh doanh phân bón  đang có giá . Một mặt Đạt tổ chức sản xuất thử tại C4/20D ấp 3, xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh, và  tận dụng số bao bì  phân bón  phế phẩm  để chứa  bán thành phẩm . Do đó  số bán thành phẩm gọi là phân bón ở C4/20D ấp 3, xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh, là sản phẩm đang trong quá trình thử nghiệm. Nhà nước chưa có qui định về việc nhân dân phải đăng ký sản xuất thử với cơ quan nhà nước trước khi sản xuất thử . Do đó công dân không vi phạm hình sự khi  tổ chức sản xuất thử nếu không đem bán sản phẩm thử  và gây ảnh hưởng đên xã hội, môi trường, gây thiệt hại về kinh tế, gây ảnh hưởng đến các Cty sản xuất khác … ( Nếu có thì cơ quan điều tra phải chứng minh).  Hành vi tạo ra  các bán thành phẩm thử này  không cấu thành tội phạm để Cơ quan điều tra cần phải khởi tố bằng 1 vụ án hình sự .

         Số  hàng tạm giữ gọi là tang vật có phải là hàng hóa để kinh doanh không ? hay chỉ là bán thành phẩm thử nghiệm . Việc kết luận  phân bón giả  về chất lượng  hoặc  giả về công dụng  và  nếu phân bón  giả là  giả sản phẩm phân bón nào ? Bởi vì khi xác định trường hợp phạm tội  phải so sánh  số phân bón gọi là giả với số phân cùng chủng loại ,cùng mẫu mã, của đơn vị sản xuất nào ? Các bán thành phẩm này đều chưa hoàn tất về nhãn hiệu hàng hóa , đang trong thử nghiệm thì làm sao so sánh đối chứng ?

        2.3Lệnh bắt ghi là “mang nhãn  hiệu  giả “ TSC” của nhà nhập khẩu là Công ty Cổ phần Vật tư Kỹ thuật nông nghiệp Cần thơ” vậy   chủ sở hữu nhãn  hiệu “TSC “ có  văn bản tố cáo vi phạm và yêu cầu cơ quan nhà nước bảo vệ nhãnhiệu hàng hóa chưa ? !!!  Nếu như Lương Huệ  Đạt vi phạm giả về nhãn hiệu hàng

hóa thì tại sao cơ quan điều tra không xem xét hành vi này  theo hướng tội danh §iÒu 171 - Téi x©m ph¹m quyÒn së h÷u c«ng nghiÖp ?   mà lại khởi tố theo Điều 158

                1 - Ngưêi nµo v× môc ®Ých kinh doanh mµ chiÕm ®o¹t, sö dông bÊt hîp ph¸p s¸ng chÕ,

  gi¶i ph¸p h÷u Ých, kiÓu d¸ng c«ng nghiÖp, nh·n hiÖu hµng ho¸, tªn gäi, xuÊt xø hµng hãa hoÆc  c¸c ®èi tưîng së h÷u c«ng nghiÖp kh¸c ®ang ®ưîc b¶o hé t¹i ViÖt Nam g©y hËu qu¶ nghiªm träng    hoÆc ®· bÞ xö ph¹t hµnh chÝnh vÒ hµnh vi nµy hoÆc ®· bÞ kÕt ¸n vÒ téi nµy, chưa ®ưîcxãa ¸n tÝch mµ cßn vi ph¹m, th× bÞ ph¹t tiÒn tõ hai mư¬i triÖu ®ång ®Õn hai tr¨m triÖu ®ång  hoÆc c¶i t¹o kh«ng giam gi÷ ®Õn hai n¨m.

             Ngoài ra ,trong lệnh bắt còn ghi  “Đạt còn có hành vi tàng trữ một số lượng rất lớn bao bì phân bón giả mang nhãn hiệu “V” của Công ty cổ phần Vinacam ,đã phạm vào Điều 158Bộ luật hình sự..”  Việc qui kết như câu văn vừa nêu là  vi phạm về tố tụng . Bởi vì Cơ quan điều tra cố tình hay vô ý quên một  sự thật rất quan trọng  là Hộ kinh doanh Lương Huệ Đạt có chức năng thu mua và bán phế phẩm bao bì . Do đó  việc mua các bao bì đã qua sử dụng hoặc vì bất cứ lý do nào đó mà trở thành phế phẩm là hoàn toàn hợp pháp  có lợi cho thị trường .

    2.4  Việc có tiêu thụ hay chưa tiêu thụ hàng bán thành phẩm không thể căn cứ vào lời khai nhận của đương sự mà phải có bằng chứng xác thực  và phải chứng minh  theo trình tự và thủ tục của luật tố tụng hình sự  ( hóa đơn chứng từ ,hình ảnh ,biên bản giao nhận ,lời khai của người tiêu thụ hàng …)

    Hơn nữa ,trường hợp Lương Huệ Đạt là người Hoa không biết đọc, không biết viết tiếng Việt và bị nhân viên Công an quát nạt. Thử hỏi giá trị các biên bản, lời khai nhận lập theo thủ tục của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính  có đủ để làm chứng cứ khách quan, phù hợp với trình tự thủ tục trong tố tụng hình sự hay không ?

   2.5  Dấu hiệu tội phạm bắt buộc của tội danh : “ sản xuất hàng giả là phân bón : Điều 158 BLHS  được qui định như sau :

“ Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi với số lượng lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 153, 154, 155, 156, 157, 159 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm”

      Nếu giá trị chưa lớn hoặc chưa chứng minh người vi phạm thu lợi bất chính lớn thì người vi phạm phải đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này  Cơ quan điều tra đã  suy đoán theo hướng bất lợi cho người vi phạm, tự định giá hàng số bán thành phẩm thử nghiệm  này có giá trị vượt quá 500 triệu đồng trong khi không có một kết luận thẩm định giá của cơ quan có thẩm quyền, tự suy đoán người vi phạm thu lợi bất chính lớn trong khi không có chứng cứ khách quan về việc mua bán hàng, tự suy đoán là gây hậu quả rất nghiêm trọng. Dấu hiệu gây hậu quả rất nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc . Nhưng đến nay  không  có khiếu nại ,chứng cứ về việc sử dụng các bán thành phẩm đang thử nghiệm này đã hoặc sẽ gây tác hại đến tính mạng , sức khỏe, tài sản … cho xã hội. Như vậy cơ quan điều tra căn cứ vào chứng cứ nào để  suy đoán rằng số bán thành phẩm này  đã gây hậu quả rất nghiêm trọng  ?!!!

          Cơ quan điều tra có trưng cầu giám định của cơ quan có thẩm quyền trước khi khởi tố vụ án hay không ? Điều này chưa được làm rỏ.

  

 

 

    2.6 Hơn nữa ,Cơ quan điều tra đã vội vã  khởi tố vụ án  trong khi chưa có chứng cứ khách quan là bị can Đạt là người chuyên nghiệp sản xuất hàng giả và đã gây hậu quả rất nghiêm trọng ( khoản 2 Điều 158) . Lương Huệ Đạt không phải là người chuyên nghiệp sản xuất và buôn bán phân bón giả để sinh sống .Hộ kinh doanh Lương Huệ Đạt chỉ là đăng ký mua bán phế phẩm phế liệu không kinh doanh phân bón .Việc tiến hành thử nghiệm sản xuất thử phân bón có chăng cũng chỉ là lần đầu . Ngay cả  nếu cho rằng  số  bán thành phẩm này là phân giả thì đây cũng chỉ là vi phạm lần đầu  không phải là hành vi lặp đi lặp lại nhiều lần . Dẫu  có qui mô mức độ như thế nào thì cũng không thuộc trường hợp có tính chuyên nghiệp .

 

        2.7  Dấu hiệu  thu lợi bất chính lớn là dấu hiệu bắt buộc phải có khi khởi tố vụ án theo Điều 158 BLHS . Số tiền thu lợi là hiệu số của giá trị nguyên liệu làm nên hàng  với số tiền thu được mà người vi phạm bán số hàng gọi là giả đó . Trong trường hợp Lương Huệ Đạt ,việc mua nguyên liệu trôi nỗi theo nhiều loại giá khác nhau   và chưa chứng minh  đã  bán các bán –thành phẩm  thử nghiệm  này cho ai  thì làm sao kết luận số tiền thu lợi bất chính . Hiện nay ,tất cả mẻ thử nghiệm bán thành phẩm đều đã bị thu giử và bị  hư hỏng thì làm sao gọi là có thu lợi .

  

  Qua những phân tích nêu trên cho thấy ,chưa  đủ cơ sở pháp lý để  khởi tố vụ án và tiến hành bắt tạm giam Lượng Huệ Đạt . Hơn nữa theo Phương châm của ngành công an  về công tác bắt  giam giữ thì “ Nếu bắt cũng được không bắt cũng được thì không bắt “ .Phương châm này đã được pháp chế hóa bằng điều 88 BLTTHS : 1. T¹m giam cã thÓ ®ưîc ¸p dông ®èi víi bÞ can, bÞ c¸o trong nh÷ng trưêng hîp sau ®©y:

a) BÞ can, bÞ c¸o ph¹m téi ®Æc biÖt nghiªm träng; ph¹m téi rÊt nghiªm träng;

b) BÞ can, bÞ c¸o ph¹m téi nghiªm träng, ph¹m téi Ýt nghiªm träng vµ Bé luËt h×nh sù quy ®Þnh h×nh ph¹t tï trªn hai n¨m vµ cã c¨n cø cho r»ng ng|êi cã cã thÓ trèn hoÆc c¶n trë viÖc ®iÒu tra, truy tè, xÐt xö hoÆc cã thÓ tiÕp tôc ph¹m téi.

a) BÞ can, bÞ c¸o bá trèn vµ bÞ b¾t theo lÖnh truy n·;

b) BÞ can, bÞ c¸o ®|îc ¸p dông biÖn ph¸p ng¨n chÆn kh¸c nhưng tiÕp tôc ph¹m téi hoÆc cè ý g©y trë ng¹i nghiªm träng ®Õn viÖc ®iÒu tra, truy tè, xÐt xö;

c) BÞ can, bÞ c¸o ph¹m téi x©m ph¹m an ninh quèc gia vµ cã ®ñ c¨n cø cho r»ng nÕu kh«ng t¹m giam ®èi víi hä sÏ g©y nguy h¹i ®Õn an ninh quèc gia

 

     Vụ việc kiểm tra hành chính  cơ sở Lương Huệ Đạt đã xảy ra từ tháng 6/2009  và lượng hàng bán thành phẩm  gọi là tang vật đã bị tịch thu .Lương Huệ Đạt không có dấu hiệu bỏ trốn và không tiếp tục phạm tội . Như vậy việc bắt ,tạm giam Đạt có  đúng với Điều 88 BLTTHS và phương châm “Nếu bắt cũng được không bắt cũng được thì không bắt” của ngành Công an không ? !!!

 

 

 

 

 

 

III KIẾN NGHỊ :

 

         Kính thưa  đồng chí Thứ trưởng

         Từ những phân tích trên,căn cứ vào các nguyên tắc cơ bản của Luật Tố tụng hình  sự cho thấy chưa đủ yếu tố để kết luận Lương Huệ Đạt phạm tội “ sản xuất hàng giả là phân bón : Điều 158 BLHS  và  tạm giam Lương Huệ Đạt.

       Hành vi vi phạm của hộ kinh doanh Lương Huệ Đạt  (nếu có )thì theo khoản 4, §iÒu 8. BLHS  chỉ là nh÷ng hµnh vi tuy cã dÊu hiÖu cña téi ph¹m, nh|ng tÝnh chÊt nguy hiÓm cho x· héi kh«ng ®¸ng kÓ, th× kh«ng ph¶i lµ téi ph¹m vµ ®|îc xö lý b»ng c¸c biÖn ph¸p kh¸c.

 

            Chúng tôi kính đề nghị đồng chí Thứ trưởng chỉ đạo cơ quan tố tụng :

 

            1/ Điều đầu tiên là phải thay đổi ngay biện pháp tạm giam bằng hình thức cho phép Lương Huệ Đạt được gia đình bảo lãnh tại ngoại, vì biện pháp ngăn chặn cách ly Lương Huệ Đạt khỏi xã hội không  phù hợp.

            2/ Tiến hành yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền giám định ,thẩm định số bán thành phẩm gọi là phân bón giả .

            3/Trong trường hợp xét thấy không đủ yếu tố cấu thành tội phạm như đã nêu trong văn bản này  .Kính mong  cơ quan tố tụng sớm ra quyết định đình chỉ vụ án để bảo vệ tính công minh của pháp luật.

 

          Chúng tôi tin tưởng rằng phán quyết công minh của đồng chí Thứ trưởng và cơ quan tố tụng  sẽ làm cho bị can và gia đình bị can  rơi lệ thật sự, nhưng đó là giọt lệ “vui sao nước mắt lại trào” vì không kìm nổi xúc động vui mừng khi được ánh sáng công lý soi xét!

          Trân trọng cảm ơn  đồng chí Thứ trưởng.

 

                                                      

                                                        Văn phòng Luật Sư Nguyễn Minh Trí

                                                    388 Nguyễn Đình Chiểu P.4, Q.3,Tp.HCM

                                                                   Trưởng Văn Phòng

                                                 

tạm giam theo Lệnh bắt bị can để tạm giam số 832-04  ngày 11/11/2009  do phó thủ trưởng cơ quan điều tra Thượng tá Nguyễn Minh Thông ký và  Quyết định phê chuẩn lệnh bắt  số 111/ Q Đ –PCLBBCTG-P1 do Phó Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân TPHCM ký ngày 18/11/2009   

  

Điều 158.  

Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi 

1. Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi với số lượng lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 153, 154, 155, 156, 157, 159 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm. 

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm: 
a) Có tổ chức; 
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; 
c) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; 
d) Hàng giả có số lượng rất lớn; 
đ) Tái phạm nguy hiểm; 
e) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 

3. Phạm tội trong trường hợp hàng giả có số lượng đặc biệt lớn hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. 

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm

Điều 171.  

Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp 

1. Người nào vì mục đích kinh doanh mà chiếm đoạt, sử dụng bất hợp pháp sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, tên gọi, xuất xứ hàng hoá hoặc các đối tượng sở hữu công nghiệp khác đang được bảo hộ tại Việt Nam gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến hai năm. 

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm: 
a) Có tổ chức; 
b) Phạm tội nhiều lần; 
c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. 

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

 

Theo tài liệu điều tra của cơ quan chức năng, ngày 22/6, PC.15 phối hợp với Đội 3A, Chi cục QLTT TP.HCM kiểm tra hộ kinh doanh phụ gia và TĂGS tại C4/20D ấp 3, xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh do Lương Huệ Đạt làm chủ, phát hiện hành vi sản xuất phân bón giả với số lượng lớn. Tang vật tạm giữ gồm 610 bao phân kali, tương đương 30,5 tấn, 2.160 vỏ bao, 5 máy may bao, 41 tấn hóa chất không có hóa đơn chứng từ...Theo lời khai ban đầu của Đạt, việc sản xuất phân bón giả bằng cách mua kali và một số hóa chất về pha trộn rồi đóng bao và đã tiêu thụ được trên 100 tấn phân bón giả  với giá 4,2 triệu đồng/tấn.

 

Các bài viết khác

Luật sư tư vấn miễn phí

Gọi ngay
0902818158- 0906834543
0906834543
0902818158

Tin pháp luật

CÁC ĐỐI TÁC

  • Nhà Đất Phúc An Khang
  • The Diplomat
  • The NewYork Review of Book
  • CogitAsia
  • Reuters
  • Viet Studies
  • The NewYork Times
  • TIME
  • Bloomberg Bussiness