TIN TỨC

fanpage

Thống kê truy cập

  • Online: 10
  • Hôm nay: 184
  • Tháng: 4546
  • Tổng truy cập: 5149811
Chi tiết bài viết

Báo cáo chuyên đề đất đai

BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG - Hà Nội, ngày 20 tháng 7 năm 2015

 

 

BÁO CÁO

CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI NĂM 2014,

THÁNG 6 ĐẦU NĂM 2015 VÀ TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI THI HÀNH LUẬT ĐẤT ĐAI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT THÁO GỠ

 

 

I. Về những kết quả đạt được

Năm 2014 và năm 2015 là những năm trọng tâm triển khai tổ chức thi hành Luật Đất đai năm 2013 đã được Quốc hội thông qua và là năm bản lề thực hiện thành công kế hoạch 05 năm 2011 - 2015. Với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Lãnh đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường; sự đoàn kết, nhất trí cao của tập thể Lãnh đạo Tổng cục Quản lý đất đai và sự nỗ lực của các cán bộ, công chức, viên chức trong toàn ngành quản lý đất đai; sự phối hợp chặt chẽ và hỗ trợ tích cực của các Bộ, ngành, cơ quan liên quan ở Trung ương và các địa phương trên cả nước, ngành quản lý đất đai đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ giao, góp phần quan trọng vào việc giữ ổn định chính trị, xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước. Toàn ngành đã nghiêm túc triển khai thực hiện Chỉ thị 01/CT-TTg ngày 22/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ về triển khai thi hành Luật Đất đai; triển khai thực hiện Chương trình công tác năm 2014, năm 2015 của Chính phủ, của Bộ Tài nguyên và Môi trường và đã đạt được quan trọng sau đây:

1. Về việc chuẩn bị các điều kiện để tổ chức thi hành Luật Đất đai

a) Về công tác xây dựng chính sách, pháp luật đất đai 

Xây dựng chính sách, pháp luật về đất đai là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác quản lý nhà nước về đất đai của năm 2014 và năm 2015. Cho đến nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường về cơ bản đã hoàn thành các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai được giao theo kế hoạch đề ra. Cụ thể Bộ đã chủ động, khẩn trương xây dựng và trình Chính phủ ban hành 05 Nghị định; phối hợp với Bộ Tài chính trình chính phủ ban hành 02 Nghị định. Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trình Chính phủ ban hành 01 Nghị định. Bộ đã xây dựng, ban hành 24 Thông tư và Thông tư Liên tịch.

Nhìn chung, các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành Luật Đất đai được được trình ban hành theo đúng trình tự, thủ tục, đảm bảo kịp thời có hiệu lực ngay khi Luật Đất đai có hiệu lực thi hành; khắc phục được tình trạng Luật chờ các văn bản hướng dẫn. Việc ban hành đồng thời các văn bản hướng dẫn thi hành Luật có hiệu lực cùng với Luật Đất đai đánh dấu một bước tiến quan trọng, được xã hội ghi nhận và đánh giá cao trong việc chuẩn bị thi hành Luật Đất đai.

Bộ đã chỉ đạo các địa phương chủ động rà soát các Điều, Khoản được giao trong Luật, Nghị định để quy định chi tiết thi hành. Đến nay, đã có 63/63 tỉnh ban hành được hơn 360 văn bản quy định chi tiết thi hành Luật và các Nghị định quy định chi tiết thi hành. Trong đó, các văn bản do địa phương ban hành tập trung vào các lĩnh vực giá đất; bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; quy định về hạn mức sử dụng đất, điện tích tối thiểu được phép tách thửa.

b)  Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai

Thực hiện Chỉ thị số 01/CT-TTg, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng kế hoạch triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức chính sách, pháp luật về đất đai; biên tập tài liệu phổ biến về những nội dung đổi mới của Luật Đất đai và các Nghị định quy định chi tiết thi hành để sử dụng thống nhất trên cả nước; tổ chức in gần 5.000 cuốn Luật Đất đai và Nghị định để cung cấp cho các Bộ, ngành và các địa phương. Tổ chức Hội nghị giới thiệu những nội dung đổi mới của Luật Đất đai, Hội nghị phổ biến, bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ báo cáo viên về pháp luật đất đai[1]; phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tổ chức tuyên truyền cho các đối tượng có liên quan (cử trên 60 lượt chuyên gia để phổ biến pháp luật đất đai cho 31 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương);phổ biến Luật Đất đai trên các phương tiện thông tin đại chúng; giới thiệu và trao đổi nhu cầu hợp tác trong triển khai thi hành Luật với các cơ quan ngoại giao, các nhà tài trợ quốc tế.

Tại địa phương, 63/63 tỉnh, thành phố trên cả nước đã triển khai công tác phổ biến Luật Đất đai và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật đến các tổ chức, cá nhân bằng nhiều hình thức khác nhau. Nhiều địa phương đã triển khai cụ thể đến cả các đối tượng là cán bộ cấp huyện, cấp xã.

Nhìn chung, công tác tuyên truyền pháp luật đất đai đã được triển khai rộng rãi đến mọi đối tượng với những nội dung thiết thực và hình thức phù hợp được các Bộ, ngành, các địa phương và được dư luận nhân dân đánh giá cao. Qua đó đã góp phần nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật đất đai của các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng đất.

c) Chỉ đạo, đôn đốc các địa phương và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thi hành Luật Đất đai

- Để việc triển khai thi hành Luật đảm bảo đồng bộ, kịp thời khi Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2014, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tập trung chỉ đạo và thống nhất áp dụng pháp luật, đồng thời hướng dẫn việc xử lý đối với một số vấn đề phát sinh trong quá trình chuyển tiếp giữa Luật cũ và Luật mới[2]. Đồng thời, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chỉ đạo Tổng cục Quản lý đất đai ban hành 02 văn bản để chỉ đạo công tác cấp giấy chứng nhận, tập trung xây dựng, quản lý, khai thác hệ thống thông tin đất đai, cơ sở dữ liệu đất đai theo đúng tinh thần Chỉ thị số 01/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

- Về giải quyết một số khó khăn, vướng mắc trong triển khai thi hành Luật tại các địa phương: Sau khi Luật Đất đai có có hiệu lực thi hành, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chỉ đạo các đơn vị thuộc Bộ tập trung xử lý các văn bản của địa phương phản ánh các khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thi hành Luật Đất đai của các địa phương. Mặt khác, để kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, trong tháng 12 năm 2014, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức 02 Hội nghị (phía Bắc và phía Nam) với Lãnh đạo các Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh, thành phố để nghe phản ánh của các địa phương; Lãnh đạo Bộ đã thành lập các Đoàn công tác làm việc trực tiếp với các tỉnh, thành phố đại diện cho 03 miền trên cả nước để nắm bắt cụ thể tình hình tổ chức thực hiện; tổ chức 02 phiên giao lưu trực tuyến với người dân và doanh nghiệp để giải đáp các vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật. Thông qua ý kiến phản ánh của các địa phương, người dân và doanh nghiệp, đối với các vướng mắc thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ trưởng, Bộ đã kịp thời xây dựng và ban hành Thông tư số 02/2015/TT-BTNMT ngày 27/01/2015 để giải quyết. Đồng thời, đã báo cáo Chính phủ cho xây dựng Nghị định quy định bổ sung một số nội dung để giải quyết các vấn đề vướng mắc thuộc thẩm quyền của Chính phủ.

2. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

a) Về quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011-2015): Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011-2015) cấp quốc gia đã được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 17/2011/QH13. Bộ TN&MT đã đôn đốc, tổng hợp báo cáo của các Bộ, ngành và địa phương và Bộ trưởng đã ký thừa uỷ quyền Thủ tướng Chính phủ Báo cáo số 190/BC-CP ngày 15/5/2013 của Chính phủ gửi Quốc hội và Báo cáo số 193/BC- CP ngày 06/6/2014 của Chính phủ trình Quốc hội về kết quả kết quả thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo Nghị quyết số 17/2011/QH13 của Quốc hội. Cụ thể như sau:

- Đối với cấp tỉnh: Bộ đã trìnhChính phủ xét duyệt quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ đầu (2011-2015) cho 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

- Đối với cấp huyện: có 352 đơn vị hành chính cấp huyện được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (chiếm 49,93%); có 330 đơn vị hành chính cấp huyện đang triển khai lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (chiếm 46,81%); còn lại 23 đơn vị hành chính cấp huyện chưa triển khai lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (chiếm 3,26%).

- Đối với cấp xã: có 6.516 đơn vị hành chính cấp xã được cấp có thẩm quyền xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (chiếm 58,41%); có 2.907 đơn vị hành chính cấp xã đang triển khai lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (chiếm 26,06%); còn lại 1.733 đơn vị hành chính cấp xã chưa triển khai lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (chiếm 15,53%).

b) Về điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và lập kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2016-2020): Trong 6 tháng đầu năm, Bộ đã tập trung triển khai việc điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và lập kế hoạch sử dụng đất 05 năm kỳ cuối (2016-2020) cấp quốc gia theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 08/CT-TTg ngày 20/5/2015. Đến hết tháng 6 năm 2015 đã có 06 Bộ, ngành và 52 tỉnh gửi Báo cáo kết quả thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và đăng ký nhu cầu sử dụng đất giai đoạn 2016-2020 và còn một số tỉnh, thành phố chưa gửi báo cáo[3]. Bộ cũng đã xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện việc kiểm tra các địa phương trong việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011-2015) các cấp.

3. Về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất

Trong năm 2014 và 6 tháng đầu năm 2015, đặc biệt là sau khi Luật Đất đai có hiệu lực thi hành, Bộ TN&MT đã tích cực, chủ động chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương thực hiện công tác thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, bảo đảm theo đúng các quy định của pháp luật về đất đai. Bộ đã có Công văn số 1622/BTNMT-TCQLĐĐ ngày 06/5/2014 và Công văn số 3398/BTNMT-TCQLĐĐ ngày 14/8/2014 gửi UBND các tỉnh, thành phố về việc chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng để thực hiện các công trình, dự án của các địa phương. Bộ cũng đã thực hiện việc rà soát hồ sơ xin chuyển mục đích sử dụng đất lúa, đất rừng phòng hộ, rừng đặc dụng của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định[4].

4. Về công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

Bên cạnh việc hoàn thiện các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai, Bộ đã tích cực chỉ đạo, hướng dẫn, tháo gỡ vướng mắc cho các địa phương trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; đặc biệt là công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng đối với các dự án trọng điểm. Tại các địa phương, công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cũng luôn được quan tâm chỉ đạo tổ chức thực hiện công khai, dân chủ; đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Đặc biệt là từ khi Luật Đất đai năm 2013, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân có đất bị thu hồi được đảm bảo, đã góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án nhất là các dự án trọng điểm như Quốc lộ 1A, dự án đường Hồ Chí Minh, góp phần ổn định kinh tế, xã hội.

Theo số liệu tổng hợp của 34 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gửi báo cáo về Bộ Tài nguyên và Môi trường trong năm 2014, các địa phương đã triển khai thực hiện 2.194 công trình, dự án (địa phương triển khai nhiều công trình, dự án là: Quảng Nam (294 dự án), Lào Cai (211 dự án), Bắc Giang (162 dự án), Phú Yên (146 dự án), với tổng diện tích đất đã thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng là 7.882 ha (đất nông nghiệp 6.810 ha; đất ở 165 ha; đất khác 930 ha); số tổ chức, hộ gia đình cá nhân có đất thu hồi là 80.893 trường hợp (tổ chức 1.155 trường hợp; hộ gia đình, cá nhân 79.738 trường hợp).

Nhìn chung, diện tích đất được thu hồi đã đáp ứng được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của địa phương; các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư từng bước được điều chỉnh, bổ sung phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế thị trường, đảm bảo tốt hơn quyền lợi hợp pháp của người bị thu hồi đất. Việc tổ chức thực hiện thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của Trung tâm phát triển quỹ đất bước đầu đã phát huy hiệu quả tốt, góp phần đáp ứng nhu cầu "đất sạch" để thực hiện các dự án đầu tư nhất là các dự án đầu tư nhằm mục đích công cộng.

          5. Về đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận, xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính

Đến nay cả nước đã cấp được 41.757.000 Giấy chứng nhận với diện tích 22.963.000 ha, đạt 94,9% diện tích cần cấp các loại đất chính. Tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều cơ bản hoàn thành mục tiêu cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Nghị quyết số 30/2012/QH13 của Quốc hội.

Thực hiện mục tiêu xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu đất đai, trong thời gian qua, Bộ đã tập trung chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra việc tổ chức thực hiện xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính trong trên phạm vi cả nước. Đến nay, đã có 121/709 đơn vị cấp huyện[5] đang vận hành cơ sở dữ liệu đất đai (59 đơn vị cấp huyện thuộc 9 tỉnh, thành phố thực hiện dự án VLAP, 62 đơn vị cấp huyện thuộc Dự án tổng thể), trong đó có 59 đơn vị cấp huyện thuộc Dự án VLAP đã vận hành và quản lý cơ sở dữ liệu đất đai liên thông ở cả 3 cấp: Xã - Huyện - Tỉnh, điển hình là Vĩnh Long đã hoàn chỉnh mô hình xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu đất đai toàn tỉnh. Đối với Dự án xây dựng cơ sở dữ liệu đất lúa, đến nay, đã hoàn thiện việc xây dựng cơ sở dữ liệu đất lúa cho 9027 đơn vị cấp xã. Một số các tỉnh đã cơ bản hoàn thành công tác xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính nhưng vẫn chưa vận hành cơ sở dữ liệu đất đai như: thành phố Yên Bái - Yên Bái, huyện Tân Lạc - Hoà Bình, huyện Lộc Bình - Lạng Sơn, thành phố Nam Định - Nam Định, thị xã Ba Đồn - Quảng Bình, thị xã Buôn Hồ - Đắk Lắk, thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu.

6. Về công tác thống kê, kiểm kê đất đai

Hiện nay, Bộ đang chỉ đạo các địa phương thực hiện Chỉ thị 21/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ thực hiện kiểm kê đất đai, lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất năm 2014. Bộ đã trình Chính phủ phê duyệt (1) Dự án kiểm kê đất đai, lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất năm 2014; (2) xây dựng kế hoạch (Kế hoạch số 02/KH-BTNMT ngày 16/9/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường); (3) tổ chức tập huấn cho 63 tỉnh, thành phố trên phạm vi cả nước; (4) cung cấp tài liệu, công cụ hỗ trợ thực hiện việc kiểm kê đất đai cho các địa phương; (5) tập trung chỉ đạo triển khai công tác thống kê, kiểm kê đất đai năm 2014; (6) tổ chức hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ 63 tỉnh, thành phố; tổ chức các Đoàn kiểm tra đôn đốc, hướng dẫn chỉ đạo địa phương công tác kiểm kê đất đai, lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất 2014. Đến nay, đã tổ chức kiểm tra được 35/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Theo báo cáo của 63 tỉnh, thành phố, hiện đã có:

- 10840 đơn vị hành chính cấp xã đã hoàn thành việc điều tra khoanh vẽ các chỉ tiêu kiểm kê ngoài thực địa (chiếm 97,09% tổng số xã).

-  8.662 đơn vị hành chính cấp xã đã hoàn thành việc xây dựng bản đồ kết quả điều tra điều tra kiểm kê (chiếm 77,58% số xã).     

- 5.875 đơn vị hành chính cấp xã hoàn thành tổng hợp số bộ số liệu cấp xã (chiếm 52,61% tổng số xã).

- 3.492 đơn vị hành chính cấp xã đã hoàn thành xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất (chiếm 31,27% tổng số xã).

- 2.924 đơn vị hành chính cấp xã đã hoàn thành xây dựng báo cáo kết quả thực hiện kiểm kê đất đai, lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất cấp xã năm 2014 (chiếm 26,29% tổng số xã).

Nhìn chung công tác thống kê, kiểm kê đất đai được thực hiện theo quy định của Luật Đất đai, phục vụ cho việc đánh giá và hoàn thiện chính sách pháp luật về đất đai, lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất các cấp, góp phần xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.

7. Về công tác định giá đất

7.1. Tại Trung ương

Thực hiện Luật Đất đai năm 2013, Bộ đã chủ trì xây dựng trình Chính phủ ban hành Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định về giá đất; Nghị định số 104/2014/NĐ-CP ngày 14/11/2014 quy định về khung giá đất. Bộ đã ban hành Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 quy định chi tiết phương pháp định giá đất, xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất, định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất; Thông tư số 20/2015/TT-BTNMT ngày 20/4/2015 ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật để lập dự toán ngân sách nhà nước phục vụ công tác định giá đất.

Các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên đã tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho công tác định giá đất tại địa phương. Bên cạnh đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức 03 lớp tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ định giá đất cho hơn 300 cán bộ làm công tác định giá đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đồng thời, Bộ cũng đã có các văn bản hướng dẫn, tháo gỡ kịp thời các vướng mắc phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện công tác định giá đất tại địa phương.

7.2. Tại địa phương

a)    Về xây dựng bảng giá đất

- Căn cứ quy định của pháp luật và chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường, từ đầu tháng 7/2014, các địa phương trong cả nước đã triển khai công tác điều tra giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường; khảo sát mức chi phí, thu nhập từ đất phục vụ việc xây dựng bảng giá đất của địa phương; 63/63 tỉnh đã triển khai xây dựng Bảng giá đất ban hành và công bố công khai vào ngày 01/01/2015 theo đúng quy định của pháp luật về đất đai. Trên cơ sở đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có Báo cáo số 21/BC-BTNMT ngày 27/4/2015 báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình và kết quả xây dựng bảng giá đất năm 2015 của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

- Giá các loại đất trong Bảng giá đất qua hai năm 2014 và 2015 các năm cơ bản phù hợp với giá đất thị trường và có điều chỉnh tăng giá đất tại một số vị trí, đường phố, khu vực có đầu tư nâng cấp hạ tầng tốt hơn, đồng thời điều chỉnh giảm giá đất tại một số vị trí, tuyến đường, khu vực cho phù hợp với tình hình thực tế thị trường tại địa phương.

b) Về định giá đất cụ thể: Trên cơ sở quy định của pháp luật về định giá đất cụ thể, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã tổ chức thực hiện việc xác định giá đất cụ thể tại địa phương. Việc xác định giá đất cụ thể để tính thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất chủ yếu được thực hiện thông qua hình thức thuê tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất thực hiện. Giá đất cụ thể được xác định cơ bản phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường theo nguyên tắc định giá đất quy định tại Điều 112 của Luật Đất đai, góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước, bảo đảm quyền lợi của người có đất thu hồi.

8. Về công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát quản lý và sử dụng đất

Đến tháng 6 năm 2015, Tổng cục quản lý đất đai đã triển khai 17 cuộc thanh tra việc chấp hành pháp luật đất đai, cụ thể: 04 cuộc thanh tra việc quản lý, sử dụng đất đai của các tổ chức sử dụng đất theo Chỉ thị 134/CT-TTg tại các tỉnh, thành phố: Quảng Ninh, Bình Dương, Khánh Hoà, Đà Nẵng; 02 cuộc thanh tra việc quản lý, sử dụng đất nông, lâm trường tại tỉnh Hoà Bình và Lâm Đồng; 02 cuộc thanh tra việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thành phố Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh; 09 cuộc thanh tra việc chấp hành pháp luật đất đai tại 20 Dự án phát triển nhà ở tại các tỉnh, thành phố: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bắc Ninh, Bình Thuận, Nghệ An, Long An, Sóc Trăng, Đồng Nai.

Tổng cục cũng đã tiến hành triển khai kiểm tra tình hình quản lý, sử dụng đất và thực hiện chính sách pháp luật đất đai tại 5 tỉnh: Lạng Sơn, Long An, Trà Vinh, Yên Bái và Hải Dương. Qua kiểm tra, bước đầu đã phát hiện những sai phạm trong việc tổ chức thi hành Luật Đất đai.

Bên cạnh đó, trên cơ sở báo cáo của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và báo cáo của các đoàn thanh tra, kiểm tra, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã cho công khai 148 trường hợp vi phạm tại 09 tỉnh, thành phố (Quảng Bình, Vĩnh Phúc, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lạng Sơn, Thanh Hoá, Đồng Tháp, Hà Tĩnh và An Giang) trên Cổng thông tin điện tử của Bộ.

Thông qua đợt kiểm tra liên ngành theo Quyết định số 1732/QĐ-BTNMT ngày 18/8/2014 về việc kiểm tra việc cấp Giấy chứng nhận tại các dự án nhà ở trên địa bàn thành phố Hà Nội, đã phát hiện 12 trường hợp vi phạm và đã được công khai thông tin trên trang điện tử của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

9. Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai

Trên cơ sở Luật đất đai năm 2013, các văn bản hướng dẫn thi hành, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 347/TB-VPCP ngày 27/8/2014 về đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai, Bộ đã công bố bộ TTHC trong lĩnh vực đất đai[6], hoàn thành xong trước 01 tháng so với chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

Trên cơ sở bộ thủ tục hành chính do Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố, theo báo cáo từ các địa phương, đến nay có 50/63 tỉnh, thành phố công bố bộ TTHC tại địa phương. Một số địa phương đã tích cực rà soát, công bố bộ TTHC theo hướng cắt giảm số lượng thủ tục, giảm thời gian thực hiện thủ tục như tỉnh Khánh Hòa đã cắt giảm 1/3 thời gian thực hiện TTHC; Đà Nẵng cắt giảm 5 -10 ngày đối với thủ tục liên quan đến cấp giấy chứng nhận; tỉnh Đồng Nai thời gian thực hiện thủ tục đăng ký thế chấp thực hiện trong ngày...

Để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, Bộ đang phối hợp với các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính và Xây dựng để xây dựng dự thảo các Nghị định quy định chi tiết Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở; xây dựng Thông tư liên thông thực hiện nghĩa vụ tài chính liên quan đến đất đai; đồng thời chỉ đạo, triển khai việc rà soát điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp tỉnh cấp huyện nhằm phân bổ nguồn lực đất đai cho phát triển sản xuất, kinh doanh, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng.

10. Kiện toàn các tổ chức dịch vụ công trong lĩnh vực đất đai

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ[7], Bộ TN&MT đã triển khai các nhiệm vụ sau:

- Ngày 12/9/2014, Bộ trưởng gửi công thư tới Bí thư các Tỉnh ủy, Thành ủy, Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh thành phố đề nghị chỉ đạo kiện toàn Văn phòng đăng ký đất đai; ngày 25/12/2014, Bộ tiếp tục có văn bản[8] gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố đề nghị chỉ đạo kiện toàn Văn phòng đăng ký đất đai và Trung tâm phát triển quỹ đất.

- Phối hợp với các Bộ: Nội vụ, Tài chính xây dựng và ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của Văn phòng Đăng ký đất đai và Trung tâm phát triển quỹ đất trực thuộc Sở TN&MT.

Đến nay đã có 23/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thành lập Văn phòng đăng ký đất đai và đi vào hoạt động (gồm: Đà Nẵng, Hà Nội, Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng Nai, Vĩnh Phúc, Quảng Ngãi, Thái Bình, Bắc Ninh, Tây Ninh, Vĩnh Long, Lào Cai, Lâm Đồng, Bình Dương, Gia Lai, Bình Thuận, Khánh Hoà, Tiền Giang, Cao Bằng, Bình Phước, Hưng Yên và Trà Vinh, Long An); 40 tỉnh đã lập Đề án, đang trình phê duyệt.

Thực hiện Luật Đất đai năm 2003, cả nước đã có 62/63 Tổ chức phát triển quỹ đất cấp tỉnh được thành lập (tỉnh Lào Cai chưa thành lập). Đối với cấp huyện, cả nước có 338/696 huyện, thị xã, quận, thành phố thuộc tỉnh đã thành lập Tổ chức phát triển quỹ đất cấp huyện. Thực hiện quy định của Luật Đất đai năm 2013 và Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai, tính đến hết tháng 6 năm 2015, hầu hết các địa phương mới chỉ xây dựng đề án thành lập Tổ chức phát triển quỹ đất theo mô hình một cấp.

II. Đánh giá chung về những mặt được, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

1. Những mặt được

Trong năm 2014 và 6 tháng đầu năm 2015, ngành quản lý đất đai đã nghiêm túc triển khai thực hiện Nghị quyết, Quyết định, Chỉ thị, ý kiến chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Chương trình công tác của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Công tác quản lý đất đai nói chung, việc triển khai thi hành Luật Đất đai năm 2013 nói riêng đã đạt nhiều kết quả quan trọng trên các mặt: Đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đất đai theo đúng kế hoạch của Chính phủ và Bộ giao. Việc trình ban hành các Nghị định, Thông tư, ngay khi Luật Đất đai có hiệu lực thi hành là một bước tiến quan trọng thể hiện quyết tâm cao và những cố gắng, nỗ lực của tập thể lãnh đạo, cán bộ, công chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường nói chung, của Tổng cục Quản lý đất đai nói riêng. Toàn ngành đã tập trung tổ chức tuyên truyền hiệu quả pháp luật về đất đai bằng nhiều hình thức khác nhau, tạo điều kiện để đưa Luật Đất đai vào cuộc sống. Đã quan tâm và kịp thời hướng dẫn, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình chuyển tiếp thi hành Luật Đất đai, không để ách tắc gây phiền hà cho doanh nghiệp và người dân. Quyết liệt chỉ đạo để đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận, tập trung xây dựng hệ thống thông tin đất đai, cơ sở dữ liệu đất đai. Tập trung chỉ đạo công tác lập, rà soát, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất các cấp; đặc biệt là việc kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện để làm cơ sở cho việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất. Tích cực và giải quyết hiệu quả những khó khăn, vướng mắc của địa phương, người dân và doanh nghiệp trong quá trình quản lý và sử dụng đất; đặc biệt, việc phối hợp chặt chẽ với các địa phương nhằm tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng đối với các dự án lớn, các công trình trọng điểm; chỉ đạo, đôn đốc các địa phương tập trung thực hiện Chỉ thị 21/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc kiểm kê đất đai và xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất năm 2015. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát việc quản lý, sử dụng đất nhằm phát hiện, ngăn chặn vàxử lý vi phạm pháp luật đất đai của các tổ chức được nhà nước giao đất, cho thuê đất; đẩy mạnh và tăng cường hiệu quả hợp tác quốc tế lĩnh vực đất đai. Quan tâm và chú trọng cải cách hành chính trong lĩnh vực đất đai. Cả ở Trung ương và nhiều địa phương đã tập trung quyết liệt để xây dựng và công bố bộ thủ tục hành chính về đất đai theo hướng cải cách, đơn giản hoá các thủ tục hành chính nhằm dễ hiểu, dễ thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp khi thực hiện các thủ tục hành chính về đất đai.

2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

2.1. Về công tác xây dựng chính sách, pháp luật đất đai và triển khai thi hành Luật Đất đai: Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hiện nay một số văn bản quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai do các Bộ, ngành khác được giao chủ trì xây dựng vẫn chưa được ban hành, gây khó khăn cho địa phương trong việc tổ chức thi hành Luật Đất đai. Có một số nội dung, tuy đã giao trách nhiệm nhưng nhiều địa phương chưa ban hành quy định như trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành quyết định giải quyết tranh chấp đất đai. Thực tiễn triển khai thi hành Luật cho thấy vẫn còn có một số nội dung pháp luật về đất đai chưa có quy định điều chỉnh; một số nội dung mặc dù đã có quy định nhưng khó khả thi vì chưa phù hợp với điều kiện thực tiễn triển khai tại các địa phương.

2.2. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: Một số địa phương phê duyệt kế hoạch sử dụng đất năm 2015 cấp huyện muộn so với quy định, dẫn đến việc giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất theo kế hoạch bị ảnh hưởng. Có nhiều địa phương còn gặp khó khăn khi giải quyết đối với trường hợp phát sinh các dự án, công trình chưa có trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện do chưa có quy định về việc điều chỉnh kế hoạch.

2.3. Về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất: Tại nhiều địa phương, việc áp dụng thực hiện quy định về điều kiện để được giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai còn lúng túng. Nguyên nhân là do vẫn còn thiếu các quy định để xử lý chuyển tiếp giữa Luật cũ và Luật mới về các trường hợp giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng để thực hiện dự án đầu tư; dự án triển khai tại các khu vực nhạy cảm về an ninh, quốc phòng.

2.4. Về công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư: Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng vẫn còn kéo dài, làm ảnh hưởng đến tiến độ triển khai của các công trình, dự án; việc khiếu nại, khiếu kiện liên quan đến bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất vẫn còn xảy ra và khá phổ biến. Nguyên nhân của tình trạng này là do: 1) Việc chuẩn bị phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chưa được các cấp chính quyền quan tâm đúng mức, nhất là phương án giải quyết tạo việc làm mới, chuyển đổi nghề cho người có đất nông nghiệp bị thu hồi;  2) Một số địa phương chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành; chưa làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, giải thích cho nhân dân hiểu rõ quy định của pháp luật hoặc né tránh, thiếu cương quyết, không giải quyết dứt điểm, làm cho việc giải phóng mặt bằng bị kéo dài nhiều năm; 3) Năng lực của một bộ phận đội ngũ cán bộ làm công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng còn hạn chế và thiếu chuyên nghiệp, đặc biệt là cán bộ ở các vùng cao.

2.5. Về đăng ký, cấp giấy chứng nhận, xây dựng hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu địa chính: Mặc dù đã đạt theo yêu cầu của Quốc hội nhưng kết quả cấp Giấy chứng nhận trên cơ sở bản đồ địa chính, trích đo địa chính có toạ độ còn đạt thấp. Kết quả đo đạc bản đồ địa chính, cấp giấy chứng nhận chưa kịp thời đưa vào cơ sở dữ liệu đất đai để quản lý, vận hành và khai thác sử dụng. Mục tiêu xây dựng mỗi tỉnh, thành phố một mô hình cơ sở dữ liệu đất đai hoàn chỉnh của một đơn vị cấp huyện để làm mẫu chưa được hoàn thành. Tại một số địa phương, việc xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai còn phân tán, thiếu đồng bộ dẫn đến cơ sở dữ liệu đất đai cấp huyện chưa kết nối được với cấp tỉnh, thậm chí trong cùng địa bàn tỉnh sử dụng nhiều phần mềm khác nhau để xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai.

          Một số nơi đã xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai nhưng hạ tầng kỹ thuật chưa đảm bảo cho việc vận hành hệ thống thông tin đất đai, do đó cơ sở dữ liệu không được vận hành khai thác sử dụng, dẫn tới cơ sở dữ liệu không được cập nhật biến động thường xuyên dễ dẫn tới tình trạng cơ sở dữ liệu bị lỗi thời, không có giá trị sử dụng.Việc lồng ghép giữa đo vẽ bản đồ địa chính với đăng ký, cấp Giấy chứng nhận và xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai còn hạn chế. Hệ thống hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu địa chính chưa được cập nhật, chỉnh lý biến động thường xuyên, kịp thời theo quy định.

Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc nêu trên là do:

- Kinh phí đầu tư của địa phương và hỗ trợ của Trung ương cho thực hiện đo đạc, cấp giấy chứng nhận trong những năm qua còn hạn chế so với nhu cầu do nguồn thu từ đất giảm mạnh trong những năm qua và ngân sách Trung ương gặp nhiều khó khăn;

- Việc đo đạc lập bản đồ địa chính còn chậm, nhiều địa phương chưa có bản đồ địa chính nhất là khu vực đất nông nghiệp, nông thôn, các nông, lâm trường;

- Nhiều địa phương trong nhiều năm qua, sau khi cấp giấy chứng nhận đã triển khai thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới gắn với quy hoạch lại đồng ruộng, dồn điền đổi thửa, dẫn đến thay đổi cơ bản so với các giấy chứng nhận đã cấp; do đó, phải thực hiện đo đạc, chỉnh lý lại bản đồ địa chính, hồ sơ địa chính và cấp đổi giấy chứng nhận cho người dân trong những năm tới để đáp ứng yêu cầu quản lý đất đai và thực hiện các quyền của người sử dụng đất;

- Việc rà soát, sắp xếp, xác định ranh giới, mốc giới, giải quyết tranh chấp, vi phạm pháp luật đất đai của các nông, lâm trường, ban quản lý rừng thực hiện còn chậm, kém hiệu quả.

2.6. Về công tác thống kê, kiểm kê đất đai: Việc báo cáo và công bố kết quả thống kê đất đai hàng năm và kết quả kiểm kê đất đai định kỳ còn chậm so với kế hoạch đề ra. Nguyên nhân là do việc triển khai công tác này thường vào đúng thời điểm trước và sau tết âm lịch nên triển khai chậm. Mặt khác, các địa phương lại phải thực hiện rà soát, điều chỉnh diện tích đo đạc bản đồ địa chính chính quy tại các đơn vị cấp xã nên mất nhiều thời gian để cập nhật, chỉnh lý biến động. Riêng với công tác kiểm kê đất đai lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất năm 2014, do yêu cầu chất lượng, nội dung thực hiện có sự thay đổi so với kỳ kiểm kê trước đây, đòi hỏi năng lực, chuyên môn cao của các đơn vị tham gia thực hiện. Ngoài ra, do chất lượng tài liệu, bản đồ ở một số địa phương để sử dụng cho công tác khoanh vẽ chưa đảm bảo, số lượng còn thiếu; nhân lực thực hiện cho công tác này chưa đáp ứng được yêu cầu về nội dung, phương pháp thực hiện Thông tư 28/2014/TT-BTNMT; kinh phí hỗ trợ cho các địa phương thực hiện kiểm kê đất đai và lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất năm 2014 chậm phê duyệt nên đã làm chậm tiến độ thực hiện ở các địa phương.

2.7. Về công tác định giá đất: Tại một số địa phương, việc triển khai công tác định giá đất cụ thể theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 còn chậm; thời gian thực hiện việc xác định giá đất cụ thể trong một số trường hợp còn kéo dài, chưa đáp ứng kịp yêu cầu về  tiến độ để tính thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; việc xác định giá khởi điểm để đấu giá quyền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất, cho thuê đất còn phức tạp. Việc điều tra, khảo sát giá đất phổ biến trên thị trường để phục vụ cho công tác xác định giá đất cụ thể còn gặp khó khăn do người cung cấp thông tin về giá đất (người chuyển nhượng hoặc người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất) không ký vào Phiếu điều tra để xác nhận thông tin về giá đất đã cung cấp.

Nguyên nhân của tình trạng trên là do: Quy định của pháp luật về đất đai liên quan đến việc áp dụng các phương pháp định giá để xác định giá đất cụ thể trong một số trường hợp còn phức tạp, chưa phù hợp với điều kiện thực tiễn của các địa phương như thiếu thông tin giá đất thị trường, đội ngũ tư vấn định giá đất chưa đủ để đáp ứng yêu cầu của công tác định giá. Công tác chỉ đạo thực hiện tại một số địa phương chưa thực sự sát sao, quyết liệt.

2.8. Về công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát quản lý và sử dụng đất: Công tác xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra chưa sát với thực tế và yêu cầu quản lý nhà nước về đất đai; các đoàn thanh tra, kiểm tra chậm triển khai theo kế hoạch đã được duyệt; việc ban hành kết luận thanh tra một số đợt còn chậm; một số trường hợp thanh tra không đúng đối tượng. Việc thanh tra hàng năm còn ít, mang tính bị động theo các vụ việc mà báo chí, dư luận phản ánh; việc xử phạt vi phạm qua thanh tra ở cả Trung ương và địa phương còn rất ít. Hiệu quả thanh tra chưa cao do một số vụ việc thanh tra không phát hiện được vi phạm; nhiều trường hợp phát hiện hành vi vi phạm pháp luật nhưng việc thực hiện kết luận thanh tra còn chậm; tỷ lệ thu hồi tiền, thu hồi đất qua thanh tra còn thấp; việc phát hiện hành vi tham nhũng qua hoạt động thanh tra chuyên ngành đất đai còn hạn chế, chưa tương xứng với thực trạng vi phạm.

Nguyên nhân của tình trạng trên là do: (1) việc thu thập thông tin, tài liệu có liên quan phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra chưa được đơn vị quan tâm thực hiện, dẫn đến việc xây dựng và triển khai kế hoạch thực hiện chậm; (2) tổ chức thanh tra chuyên ngành thiếu ổn định, lực lượng cán bộ, công chức làm công tác thanh tra chuyên ngành còn quá mỏng, nhiều công việc đột xuất phát sinh, bên cạnh đó còn phải tham gia, phối hợp các đoàn công tác của Bộ, ngành khác chủ trì; (3) việc phân công thực hiện nhiệm vụ thanh tra còn chưa phù hợp, chức năng thanh tra chuyên ngành còn chồng chéo với các đơn vị khác (như trả lời đơn thư, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ, giải quyết khiếu nại, tố cáo); (4) quy định về phạt tiền vi phạm mang tính hình thức khó thực hiện và kinh phí cấp phục vụ cho các đoàn thanh tra, kiểm tra còn chưa kịp thời, khó khăn khi triển khai công tác tại địa phương.

2.9. Việc kiện toàn tổ chức dịch vụ công và cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai: Việc rà soát, tổ chức lại Văn phòng đăng ký đất đai và Trung tâm phát triển quỹ đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 còn chậm. Một số địa phương chưa thật sát sao, quyết liệt trong việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai. Hiện vẫn còn hơn 10 tỉnh chưa công bố bộ thủ tục hành chính tại địa phương theo quy định và theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ. Trong triển khai thực hiện các quyền của người sử dụng đất, vẫn còn gặp khó khăn, vướng mắc liên quan đến việc thực hiện quyền thế chấp của doanh nghiệp thuê lại đất trong khu công nghiệp; một số thủ tục hành chính cần được tiếp tục rà soát, hoàn thiện theo tinh thần của Nghị quyết số 19/NQ-CP của Chính phủ để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân và doanh nghiệp.

III. Một số giải pháp, kiến nghị nhằm đẩy mạnh việc tổ chức thi hành Luật Đất đai

1. Một số giải pháp

1.1. Tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai

         Xây dựng Nghị định quy định bổ sung một số nội dung về quy Nghị định quy định bổ sung một số nội dung về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, giải quyết tranh chấp, xử lý vi hành chính trong lĩnh vực đất đai để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về pháp luật trong tổ chức thi hành Luật. Xây dựng và ban hành các Thông tư quy định về việc xây dựng hệ thống thông tin đất đai, cơ sở dữ liệu đất đai. Đôn đốc các Bộ, ngành có liên quan ban hành các Thông tư hướng dẫn thi hành Luật.

1.2. Tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai.

1.3. Đẩy mạnh việc kiện toàn Văn phòng đăng ký đất đai, Tổ chức phát triển quỹ đất một cấp theo quy định của Luật Đất đai năm 2013.

1.4. Tăng cường công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra việc quản lý, sử dụng đất; tiếp tục chỉ đạo các địa phương tăng cường công tác kiểm tra việc thi hành Luật Đất đai.

1.5. Tập trung nguồn lực đầu xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu đất đai đa mục tiêu để vừa đáp ứng được yêu cầu thông tin cho công tác quản lý, đồng thời phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; tạo điều kiện để thực hiện quản lý đất đai công khai, minh bạch và thuận lợi trong việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính.

2. Kiến nghị

- Bộ, ngành, địa phương sớm ban hành các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai đã được giao; theo chức năng, nhiệm vụ được giao rà soát các văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực Bộ, ngành, địa phương mình quản lý để đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.

- Đề nghị Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nghiêm túc trong việc tổ chức thi hành Luật Đất đai, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai tại địa phương; thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo, phản ánh kịp thời những vướng mắc, bất cập trong tổ chức thi hành Luật Đất đai về Bộ Tài nguyên và Môi trường để có giải pháp tháo gỡ kịp thời./.



[1] 03 Hội nghị phổ biến Luật cho cán bộ Sở TN&MT của 63 tỉnh, thành phố với khoảng gần 500 lượt cán bộ tham gia; tổ chức 04 Hội nghị phổ biến, bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ báo cáo viên về Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành cho các Bộ, ngành, Sở TN&MT, Phòng TN&MT 63 tỉnh, thành phố với gần 1.130 đại biểu tham gia.

[2] Công văn số 1001/BTNMT-TCQLĐĐ ngày 25/3/2014 và Công văn số 2505/BTNMT-TCQLĐĐ ngày 18/ 6/2014.

[3] Hoà Bình, Hải Phòng, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Ninh Thuận, Lâm Đồng, Bình Phước, Bến Tre và Vĩnh Long.

[4] Năm 2014 và 06 tháng đầu năm 2015, Tổng cục đã tiếp nhận 190 văn bản của các địa phương và đã xử lý trình Bộ trình Thủ tướng Chính phủ.

[5] Trong số 62 huyện được lựa chọn làm huyện mẫu có 13 huyện đã vận hành cơ sở dữ liệu địa chính thuộc địa bàn các tỉnh: Bắc Kạn, Yên Bái, Thái Nguyên, Bắc Giang, Hà Nam, Ninh Bình, Lâm Đồng, Bình Dương, Đồng Nai, An Giang và Cà Mau. Có 19/62 huyện mẫu đã hoàn thành cơ bản công tác đo đạc bản đồ (tỷ lệ trên 90%)[5], đã hoàn thành chỉ tiêu đăng ký cấp giấy chứng nhận nhưng chưa tiến hành xây dựng cơ sở dữ liệu bao gồm: huyện Bắc Mê - Hà Giang, huyện Sơn Dương - Tuyên Quang, thành phố Lai Châu - Lai Châu, huyện Yên Lập - Phú Thọ, huyện Tam Đảo - Vĩnh Phúc, Q. Đồ Sơn - Hải Phòng, huyện Lý Nhân - Hà Nam, huyện Đô Lương - Nghệ An, thành phố Đồng Hới - Quảng Bình, huyện Triệu Phong - Quảng Trị, huyện Tuy An - Phú Yên, thành phố Phan Rang -Tháp Chàm - Ninh Thuận, huyện Đắk Tô - Kon Tum, huyện Tân Châu - Tây Ninh, huyện Long Điền - Bà Rịa Vũng Tàu, huyện Đức Hoà, huyện Bến Lức - Long An, huyện Càng Long - Trà Vinh, quận Ô Môn – Cần Thơ.

[6] Quyết định số 1839/QĐ-BTNMT ngày 27/8/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

[7] Thông báo số 347/TB-VPCP ngày 27/8/2014

[8] Văn bản số 5705/BTNMT-TCQLĐĐ ngày 25/12/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường

Các bài viết khác

Luật sư tư vấn miễn phí

Gọi ngay
0902818158- 0906834543
0906834543
0902818158

Tin pháp luật

CÁC ĐỐI TÁC

  • Nhà Đất Phúc An Khang
  • The Diplomat
  • The NewYork Review of Book
  • CogitAsia
  • Reuters
  • Viet Studies
  • The NewYork Times
  • TIME
  • Bloomberg Bussiness