TIN TỨC

fanpage

Thống kê truy cập

  • Online: 82
  • Hôm nay: 527
  • Tháng: 7266
  • Tổng truy cập: 5140585
Chi tiết bài viết

AI ĐANG THỐNG TRỊ NƯỚC MỸ ?

 

Trả lời câu hỏi “Ai cai trị nước Mỹ?”, có lẽ nhiều người sẽ nói: chính phủ và Tổng thống Mỹ đang cai trị nước này.

Image result for AI ĐANG THỐNG TRỊ NƯỚC MỸ ?

Câu trả lời ấy không sai nhưng chưa đi vào bản chất vấn đề. Nếu tiếp tục tìm hiểu ta sẽ thấy Ai cai trị nước Mỹ là một vấn đề phức tạp, cho tới nay vẫn chưa có câu trả lời tương đối nhất trí mà tồn tại nhiều quan điểm khác nhau.

 

HỆ THỐNG SIÊU QUYỀN LỰC TẠI HOA KỲ 

  Lời TS từ facebook của Dao Hieu : Hiện nay trên các mạng xã hội đang có một nguồn tin cho rằng khi Trump thất bại và Biden lên cầm quyền thì xã hội Mỹ đang chia rẽ sâu sắc và có thể nước Mỹ sẽ bị “chia đôi”. Hơn thế nữa còn có hẳn một bài báo nhan đề: “Việc chia đôi nước Mỹ đang dần hình thành” của tác giả Đào Văn Bình đưa lên mạng ngày 01/10/2021.

 Tôi thật sự kinh hoàng trước những thông tin như vậy và không thể ngờ rằng trên thế gian này lại có người nghĩ ra được những chuyện “độc đáo” như vậy.

 Để rộng đường dư luận, tôi xin đăng lại một bài báo mà tôi đã post lên trang FB của tôi sau khi bầu cử tổng thống Mỹ hạ màn.

  HỆ THỐNG SIÊU QUYỀN LỰC TẠI HOA KỲ

 Tác giả: Lê Quốc

     Lời mở đầu: BÀI BÁO NÀY LÀ CỦA TÁC  GIẢ LÊ QUỐC. TÔI ĐỌC TÌNH CỜ TRÊN MẠNG INTERNET VÀ THẤY CÓ NHIỀU CHI TIẾT THÚ VỊ ĐÁNG CHO NGƯỜI VIỆT CHÚNG TA HỌC HỎI. TUY NHIÊN TRONG BÀI CÓ VÀI ĐOẠN “NHẠY CẢM” NÊN TÔI XIN MẠN PHÉP TÁC GIẢ LƯỢC BỎ BỚT. XIN TÁC GIẢ THÔNG CẢM VÀ THỨ LỖI. 

 TÔI NGHĨ TÁC GIẢ LÀ MỘT TRÍ THỨC VIỆT KIỀU MỸ, CÓ KIẾN THỨC THỜI SỰ BAO QUÁT VÀ TẦM NHÌN CHÍNH TRỊ SẮC SẢO. HIẾM THẤY MỘT VIỆT KIỀU MỸ NHƯ VẬY.

 *Tư bản là một thế lực vô tổ quốc. Nơi nào có thể làm ra tiền là nó đến. Nơi nào không còn kiếm được tiền thì nó đi… Nó chẳng cần phân biệt bạn hay thù, dân chủ hay độc tài, Cộng sản hay không Cộng sản. Mục đích tối hậu của nó là TIỀN. Cho nên, lắm khi vì tiền mà nó hy sinh mạng sống  đồng bào của nó, chà đạp lên xác chết của nhân loại, hy sinh cả một quốc gia mà trước đó nó là Đồng Minh –  thậm chí phản bội Dân tộc và Tổ quốc  của chính nước nó.

       Nền chính trị Hoa Kỳ - qua 44 trào Tổng Thống – đều do một thế lực tư bản vô hình có tên gọi là “Hệ thống siêu quyền lực” phía sau, hoạch định chính sách và đường lối. Tổng Thống (Hành Pháp) hay Quốc hội (Lập pháp) chỉ là những cơ quan thi hành chính sách của siêu quyền lực đó. Có nhiều người thuộc đủ mọi thành phần chánh khách, trí thức, bình dân hay hỏi nhau: Trung Tâm quyền lực Hoa kỳ ở đâu ? Ai là người điều khiển: – Tổng Thống dân cử – Chủ Tịch Quốc hội dân cử,  hay Phán quyết của 9 Thẩm phán Tối cao Pháp viện?

       Mọi người đều mù  mờ, như bị một làn khói hư hư thực thực che giấu, khó nhận ra được ai là người điều khiển quyền lực Hoa Kỳ? Đâu là cơ quan chính thức chỉ huy? Chỉ nghe được những nhận xét chung chung: “Các thế lực Tư Bản tài phiệt” .

       Sử gia lỗi lạc nước Mỹ – ông Carrol Quigley nhận định thẳng thắn rằng : “Quả là một ý tưởng điên rồ, nếu cho rằng hai đảng đại diện cho những tư tưởng và chinh sách đối nghịch – một của cánh hữu và một của cánh Tả.  Ý tưởng đó chỉ có thể chấp nhận với những tư tưởng gia Hàn Lâm và giáo điều mà thôi! 

  Thực chất, Hai đảng chỉ là Một. 

  Cho nên chuyện người Mỹ có thể dùng lá phiếu để thay đổi quyền lực ở Mỹ chỉ là ảo tưởng.

       Theo dòng lịch sử Hoa Kỳ – các sử gia, các nhà nghiên cứu chính trị hay các thành viên rời bỏ các tổ chức liên quan đến hệ thống siêu quyền lực, đều nhìn nhận rằng : Nền chính trị Hoa Kỳ luôn luôn do một hệ thống siêu quyền lực đứng đàng sau để chi phối và kiểm soát… 

  .1/.HỆ THỐNG SIÊU QUYỀN LỰC HOA KỲ:

       Theo sử gia Carrol Quigley,  hệ thống này gồm có 400 nhà Đại Tư Bản, chủ nhân Ngân Hàng, chủ nhân các Công Ty đa quốc, những tập đoàn công Ty lớn, những đại gia tỷ phú có một tài sản kếch xù trên thương trường v.v…   Tài sản của 400 nhà đại tư bản nầy bằng tài sản của 155 triệu dân Mỹ gộp lại.

       Đây là một tập đoàn tài phiệt mang tên:“Financial Oligarchy” nắm  phần lớn những nguồn tài chánh và nhiều tài nguyên khác và có trong tay ảnh hưởng lẫn quyền kiểm soát qua sự cài đặt người vào các vị trí then chốt của 2 cánh (wings): Cộng Hòa và Dân Chủ như là hai hệ phái của MỘT ĐẢNG TÀI PHIỆT duy nhứt. 

  Hai hệ phái nầy chỉ tranh luận những vấn đề nội bộ nhỏ nhặt, hình thức và cá nhân. Những chánh sách lớn về đối ngoại cũng như đối nội đều do hệ thống siêu quyền lực hoạch định. Thí dụ : Chiến lược xoay trục, đem 60% sức mạnh quân sự sang Châu Á Thái bình Dương là do quyết nghị của hội nghị siêu quyền lực “Illuminati Bilderberg họp năm 2009 tại đảo du lịch Vouliagmenti thuộc thành phố Athens Hy Lạp. Tổng Thống Barack Obama và Ngoại Trưởng Hillary Clinton được mời tham dự.

       Hệ thống tài phiệt nầy tổ chức rất chặt chẽ, tinh vi và  bí mật, tuyển dụng những tinh hoa của Hoa Kỳ và thế giới, để cài vào các cơ quan then chốt của chính quyền. Hệ thống nầy căn cứ trên 4 tổ chức sau đây:

  1.-The council on foreign relations:  4.500 thành viên Hoa Kỳ và các nước trên thế giới.

 2.-The trilateral commission:  87 Americans và 337 thành viên thuộc các QG khác.

 3.-The Bilderberg Club:  120 đến 140 khách – trong đó có đại diện 13 tổ chức siêu quyền lực và các chánh khách đầy quyền uy của các quốc gia trên thế  giới.

 4.-Các Foundation miễn thuế như Rockefeller foundation do David   Rockefeller làm chủ tịch,  Dale Carnegie foundation, Ford foundation v.v…

       Hằng năm, hệ thống tài phiệt nầy liên lạc với các Đại học nổi tiếng như Harvard, Yale, Princeton, M.I.T , tuyển dụng các tài năng xuất sắc  tốt nghiệp các trường nầy, đài thọ cho học thêm 2 năm sau khi tốt nghiệp – sau đó tuyển dụng cho vào làm việc tại các công Ty của 400 đại tư bản nầy. Sau một thời gian làm việc, các chủ nhân xem xét cẩn thận và tuyển chọn vào danh sách “The council on foreign Relations” hay “The trilateral commission” – dự bị nguồn nhân lực tinh hoa để cài vào các chức vụ then chốt trong guồng máy cai trị của các cơ quan Hành Pháp hay Lập pháp Hoa Kỳ. Chính các nhân vật được cài đặt nầy sẽ soạn thảo đường lối, chánh sách, chiến lược an ninh, chiếu theo nghị quyết của Hội nghị siêu quyền lực “Bilderberg” để  trình lên Tổng Thống Hoa Kỳ duyệt y.

 .2/.CHỨNG MINH                        `

    * Hành Pháp OBAMA bổ dụng 11 thành viên của “The trilateral commission” vào những chức vụ then chốt  trong vòng 10 ngày đầu đắc cử Tổng Thống.

 * 42% chức vụ ngoại giao hàng đầu trong chánh quyền Truman đều là thành viên của Hội đồng Tài Phiệt “The council on foreign Relations”

 * 40% trong chánh quyền Eisenhower;  51% trong chánh quyền Kennedy;  57% trong chánh quyền Johnson đều là người của các  tổ chức trên.

      Các nhân vật như  Margaret Thatcher, Bill clinton, Tony Blair đều là thành viên của “The council on foreign Relations” .

       Hội đồng tài phiệt nầy có ảnh hưởng lớn lao trong thế giới truyền thông. Những đại nhật báo như tờ Newyork Times, Time, Newsweek, Washington Post… đều do các tài phiệt Do Thái nắm giữ.

       Khi cần thay đổi một chánh sách, giới báo chí truyền thông tung tin thổi phồng lên như  phong trào phản chiến chống chiến tranh VN,  khai thác những bức ảnh gây “sốc” như ảnh bé Kim Phúc, ảnh tướng Nguyễn Ngọc Loan xử bắn một VC trên đường phố…

       Truyền thông Mỹ do những chủ nhân người Do Thái nắm quyền lực truyền thông, bao trùm cả nước Mỹ, đủ sức tạo ảnh hưởng trong quần chúng, điển hình là trường hợp Việt Nam: Chính  thế lực tài phiệt truyền thông Do Thái trong chính quyền Nixon, mở chiến dịch xuyên tạc VNCH, thổi  bùng ngọn gió bão phản chiến dữ dội, châm ngọn lửa biểu tình long trời lỡ đất, áp lực chính quyền Johnson, Nixon phải thay đổi chánh sách: Một mặt, chuyển sức mạnh quân sự về mặt trận Trung Đông – nơi có chiến tranh giữa Israel và Palestin – mặt khác,  bắt tay với Trung Cộng – một thị trường béo bở với 1 tỉ 3 trăm triệu người. Kết quả Mỹ tháo chạy và bức tử VNCH. Tên Do Thái Henry Kissinger chính là thành viên của Hội đồng tài phiệt (The council on foreign  Relations), đã đạo diễn màn rút quân Mỹ khỏi VN và bỏ rơi VNCH.

  Các Trưởng cơ quan tình báo CIA: Allen Dulles, John Mc Cone, Richard Helms, William Colby và George  W. Bush v.v… đều là người của Siêu quyền Lực.

 . 3/. HỘI NGHỊ BILDERBERG:

       Hằng năm, Hệ thống Siêu quyền lực Hoa Kỳ đều triệu tập một hội nghị. Tính đến nay có 63 lần họp tại các địa điểm khác nhau. Chỉ tính từ những năm gần đây với mục  đích  chứng minh hoạt động của Siêu quyền lực chi phối chính phủ Hoa Kỳ:

  1.- Năm 2008:  Họp tại khách sạn Chantilly (Washington) Hoa kỳ ngày 05 đến 08-6-2008. Thành viên cuộc họp: Đại diện 13 hệ phái siêu quyền lực thế giới và các nhà đại Tư Bản lớn, các chánh khách quan trọng đầy quyền lực trên thế giới. TNS Barack Obama được chọn mời tham dự trước ngày tranh cử Tổng Thống Hoa Kỳ và được giới thiệu nói chuyện trước 200.000 người tại một sân vận động Đức . Ông được hoan hô nhiệt liệt ngày 24-7-2008 và  TNS da đen Barack Obama đắc cử Tổng Thống thứ 44 của Hoa Kỳ.

  2.- Năm 2009:  Hội nghị siêu quyền lực Illuminati Bilderberg họp tại đảo du lịch Vouliagmenti thuộc thành phố Athens của Hy Lạp. Tổng Thống Barack Obama và Ngoại Trưởng Hillary Clinton được mời tham dự. Hội nghị quyết nghị đề xuất chiến lược xoay trục sang Châu Á /TBD, đưa 60% sức mạnh quân sự Mỹ sang Á Châu.

  3.- Năm 2014:  Hội nghị Illuminati Bilderberg họp ngày 5 và 6 -6-2014  tại Watford Anh Quốc . Hội nghị  siêu quyền lực nầy được thành lập ngày 29 đến 31-5-1954 tại khách sạn Bilderberg Hà Lan, gồm 120 đến 150 người gồm 2/3 từ Âu Châu, 1/3 từ Mỹ và Châu Mỹ Latin. Khoảng 100 người là những đại tư bản trong các hệ thống siêu quyền lực, 50 người là các chánh khách lãnh đạo chánh phủ. Tổ chức nầy bảo mật, không công bố các quyết  nghị của Hội Nghị. Sau hội nghị, Nhật Bản sửa lại Hiến Pháp, thay đổi điều 9, cho phép Nhật đem quân ra ngoài và liên minh với các quốc gia khác trong mục đích TỰ VỆ và vấn đề chia nhỏ T.C làm 5 quốc gia nhỏ để tránh hậu quả cho thế giới. Hội nghị Bilderberg 2014 đã làm thay đổi trật tự tại Á Châu/TBD.

  4.-Năm 2015:  Tổ chức siêu quyền lực Bilderberg họp tại đại khách sạn Interralpen- Hotel Tysol trên vùng núi gần thành phố Telfs – Austria. Hội nghị Bilderberg gồm có 13 hệ phái siêu quyền lực tại Hoa Kỳ, Châu Âu và châu Mỹ Latin và các chủ Ngân Hàng, chủ các Tập đoàn tài phiệt, các nhà chánh trị cao cấp nhứt đang lãnh đạo các Quốc Gia trên thế giới. Đặc biệt có Bộ Trưởng Quốc Phòng Đức: Ông Ursula van der Leyen; Tổng thư ký NATO: Ông Jeans Stolberg; Tổng chưởng Lý Anh Quốc: Ông George Orsbone; nguyên Chủ Tịch uỷ hội Châu Âu: Ông José Manuel Barroso; cựu Tổng Thống Hoa Kỳ G.W Bush và  nhiều nhân vật khác.

  Hội nghị họp từ ngày 11- 6 -2015 đến hết ngày 14 - 6 - 2015 thảo luận những vấn đề khẩn cấp phải giải quyết.

       Hội nghị Bilderberg 2015 còn có một mục quan trọng cần thảo luận: Ai sẽ là Tổng Thống thứ 45 của Hoa Kỳ? Hội nghị còn giữ bí mật nhưng tất cả thành viên đều đồng ý rằng: Phải có một vị Tổng Tư Lệnh để điều hành nghị quyết mọi vấn đề  thảo luận. Vị Tổng Tư Lệnh đó phải là Tổng Thống Hoa kỳ.  Trong 140 nhân vật dự hội, người ta đã thấy có người đại diện cho bà Hillary Chinton.  Chỉ biết đến thế, không còn biết thêm gì nữa. Nghị trình thảo luận tại hội nghị Bilderberg 2015 gồm các vấn đề cực kỳ nghiêm trọng sau đây :

  – Artificial Intelligence (Thông minh nhân tạo)

 – Cyber security (An ninh Mạng )

 – Chemical weapons Threats (Sự đe dọa vũ khí hóa học )

 – Globalisation (Toàn câu hóa)

 – Terrorism IS

 – Iran, Bắc Triều Tiên. 

– Middle – East

 – US Election (Bầu cử tồng Thống tại Hoa Kỳ )

 –  NATO , Ukraine, Nga.

       Không thấy Trung Cộng và Biển Đông trong chương trình nghị sự nầy.  Có lẽ, vấn đề Trung Quốc đã có đề cập trong hội nghị siêu quyền lực 2014 – trong đó Nhật Bản bỏ điều 9 Hiến Pháp và Trung quốc cần được xẻ ra làm 5 quốc gia nhỏ  để đảm bảo an ninh cho thế giới.

       Danh sách 44 đời Tổng Thống Hoa Kỳ đã ghi rõ 42 Tổng Thống do Free Mason hay Illuminati Bilderberg chọn, tài trợ và vận động các cuộc bầu cử Tổng Thống. CHỈ CÓ 2 VỊ LÀ ÔNG ABRAHAM LINCOLN (1861-1865) VÀ T.T KENNEDY (1961- 1963) LÀ KHÔNG THUỘC HỆ THỐNG SIÊU QUYỀN LỰC. CẢ 2 ĐỀU BỊ ÁM SÁT CHẾT.

       Như đã nói ở trên, đây là một hệ thống tư bản tài phiệt – vô tổ quốc – kể cả Tổ Quốc Mẹ của những tay tài phiệt nầy. Đã có nhiều nguồn tài liệu được giải mật chứng minh trong quá  khứ hệ thống tư bản nầy đã từng yểm trợ cho cuộc Cách Mạng vô sản tại Nga và đã tài trợ cho Liên  xô.  Quỹ Dự Trử Liên Bang Hoa Kỳ đã cho Liên Bang Xô Viết vay 200 triệu Mỹ Kim khi Lênin mới lên cầm quyền.

       Người ta phát giác ra các tập đoàn tư bản Hoa Kỳ làm ăn với Liên Bang Xô Viết cũ.  Tổng Thống Eisenhower là thành viên của “Council on foreign Relations”. Còn Churchill, Stalin là hội viên của hội Tam Điểm (Masonry). Tổng Thống Harry Truman nhường quyền kiểm soát Đông Âu và Trung Hoa cho CS.  

  Ở mặt trận Châu Á/TBD – khi tướng Mc Arthur nói với một vị dân biểu rằng: “Tôi không được phép chiến thắng trong cuộc chiến Triều Tiên” thì T.T Truman đã cách chức ông.  Và Hoa kỳ chấm dứt viện trợ cho Trung Hoa Tưởng giới Thạch, ngưng tiếp tế quân dụng mà còn cấm các tàu chở quân dụng đã mua. 

  Một vài tàu lén lút chở vũ khí  tiếp tế cho quân Tưởng thì những súng ống nầy thiếu cơ bẩm, trở thành vô dụng. Quân Trung Hoa của Tưởng khốn đốn, không còn sức chiến đấu và cuối cùng bị CS đánh bại.  Chánh quyền Truman đã phản bội người Trung Hoa Quốc Gia để đưa Mao trạch Đông lên cầm quyền ở Hoa Lục (Stanley Monteith – Brotherhood Darness).

       Tài liệu giải mật tại các thư viện Liên xô và Hoa Kỳ, khi Liên xô sụp đổ chứng minh rằng: Hệ thống siêu quyền lực Hoa Kỳ và các Tập đoàn tư bản tài phiệt đã hỗ trợ,  cho vay và bí mật  làm ăn buôn bán với Cộng sản Liên xô. Báo cáo của TNS Caroll Reese thuộc Thượng viện Hoa Kỳ khám phá ra 2 tổ chức Rockefeller foundation và Ford foundation đã tài trợ cho các chương trình phát thanh tuyên truyền cổ võ cho chủ nghĩa Cộng Sản và kết luận rằng các tổ chức nầy phải chịu trách nhiệm trong việc đưa Cộng Sản lên nắm chánh quyền ở Hoa Lục.

       Đối với Việt Nam – lịch sừ lập lại bài học Trung Hoa, Afghanistan, Irak và nhiều nước có Hoa Kỳ nhúng tay vào – Nixon, Kissenger là thành viên của “Council on foreign Relations” (CFR)  được Nelson Rockefeller đỡ đầu.

       Hệ thống tài phiệt nầy đã phản bội 58.000 binh sĩ Mỹ tử trận ở VN, 300.000 chiến sĩ VNCH và hàng triệu sinh mạng dân VN ở cả hai miền Nam Bắc.

       Không phải chỉ VNCH mà Trung Hoa Tưởng giới Thạch, Irak, Afghanistan hay bất cứ nơi nào mà  Mỹ can thiệp –  tập đoàn tài phiệt núp sau lưng – đều  như thế cả. Họ vốn vô Tổ Quốc, nơi nào kiếm được tiền là họ đến. Lúc hết làm ra tiền là họ đi. Những khẩu hiệu Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền chỉ để tuyên truyền. 

  Mục tiêu thật sự của họ là quyền lợi kinh tế – tức là TIỀN  hay TÀI NGUYÊN tính ra tiền. Đôi khi cũng do quyền lợi chính trị nhưng quyền lợi kinh tế luôn luôn là quyền lợi hàng đầu. Tiến sĩ Stanley Montieth  nói rằng Cộng Sản và Tư Bản luôn luôn cộng tác với nhau vì lợi nhuận.

    Người Việt Nam, ai mơ màng Mỹ sẽ trở lại VN, ngăn chặn Tàu  xâm lăng VN, dùng diễn biến hòa bình để lần hồi tạo lập một chế độ Dân Chủ Nhân quyền, giúp 90 triệu dân Việt thoát khỏi  Tàu , là còn mê ngủ.

  Người Mỹ không hề bỏ một cắc ra tranh đấu cho người Việt, mà Mỹ chỉ tranh đấu cho Mỹ. Trong chương trình tranh cử Tổng Thống Mỹ năm 2016 không thấy đề cập – dù chỉ là một câu – vấn đề Việt Nam và Biển Đông. 

  Làm kẻ thù của Mỹ còn được Mỹ coi trọng (như Bắc Hàn) – làm bạn của Mỹ thì bị Mỹ bỏ rơi, khi cần. Vừa mới bồng bế, nâng niu, vài năm sau vứt bỏ không thương tiếc.

  LÊ QUỐC

  

Một số quan điểm thông thường:

1. Quan điểm cho rằng mỗi quốc gia đều do một giai cấp nào đó thống trị, thí dụ các nước theo chủ nghĩa tư bản (CNTB) như Mỹ là do giai cấp tư sản thống trị, các nước XHCN do giai cấp công nhân thống trị.

Ở đây có hai vấn đề. Thứ nhất, khái niệm giai cấp thống trị (ruling class) quá rộng trong khi bộ phận quyết định đường lối chính sách quốc gia chỉ có thể là số ít. Trong một xã hội hiện đại, các quyết sách lớn đều rất phức tạp và cần giữ bí mật ; vì thế nhà nước không thể do số đông lãnh đạo. Chẳng hạn nói giai cấp công nhân lãnh đạo, thực ra là đảng của giai cấp đó, đúng hơn là Ban chấp hành trung ương, chính xác là một thiểu số (như Bộ Chính trị) lãnh đạo.

Thứ hai, trong xã hội hiện đại các giai cấp đều bị phân hóa rất rõ ràng. Tại các nước tư bản, tăng trưởng kinh tế dẫn tới xã hội CNTB phúc lợi, giai cấp công nhân không còn là giai cấp vô sản như thời của Mác nữa, mà một bộ phận đáng kể đã chuyển lên thành tầng lớp trung lưu, hữu sản. Giai cấp tư sản cũng chia làm tư sản công nghiệp và tư sản tài chính, có vai trò khác nhau và mâu thuẫn với nhau. Tầng lớp trung lưu có số người đông nhất; qua bầu cử dân chủ và qua các tổ chức xã hội công dân, họ có tiếng nói quyết định trong xã hội. Người Mỹ cho rằng ở nước họ tất cả mọi người đều là công dân, hoàn toàn bình đẳng về cơ hội nhưng có thể không bình đẳng về kết quả ; ai cũng có thể giàu hoặc nghèo tùy thuộc sự phấn đấu của mình. Căn cứ theo thu nhập, xã hội Mỹ chia làm hai tầng lớp giàu và nghèo, đều là thiểu số, và một tầng lớp trung lưu chiếm đa số (80% dân). Không có khái niệm giai cấp vô sản, vì thế ở Mỹ chưa hề có phong trào cách mạng XHCN. Hai đảng Cộng hòa và Dân chủ không đại diện giai cấp, chỉ là các nhóm lợi ích, lập ra để tranh nhau chức Tổng thống (TT). Hai đảng này tổ chức rất lỏng lẻo.

2. Quan điểm cho rằng chính quyền Mỹ là do tầng lớp nhà giàu nắm giữ.

Nước Mỹ có mức độ phân hóa giàu nghèo rất rõ rệt. Số liệu năm 2007 cho thấy 1% số gia đình (thuộc tầng lớp trên, upper class) sở hữu 34,6% tài sản tư nhân cả nước; 19% tiếp theo (gồm giới các nhà quản lý, chuyên gia, chủ doanh nghiệp nhỏ) nắm 50,5%. Nghĩa là 20% số dân sở hữu 85% tổng tài sản tư ; còn 80% số dân (là những người làm thuê) chỉ sở hữu có 15%. Hiện nay 46% nghị sĩ hai viện quốc hội Mỹ thuộc diện nhà giàu (hiểu là có tài sản trên 1 triệu USD; người giàu nhất là Darrel Issa, đảng Cộng hòa, có 451 triệu USD); nhưng chưa phải là giàu lắm. Nói tầng lớp giàu có nắm chính quyền cũng không chính xác, vì 1% số dân Mỹ là 3,5 triệu người, bằng một quốc gia nhỏ. Hơn nữa không ít tỷ phú Mỹ lại tránh xa quyền lực, như Bill Gates và Warren Buffett đều không tham gia chính đảng nào, họ cam kết góp gần hết tài sản cho công tác từ thiện và ủng hộ Tổng thống Obama tăng thuế đánh vào người giàu.

3. Quan điểm cho rằng bên cạnh chính phủ Mỹ còn có một chính phủ vô hình do các nhà tư bản tài chính đứng đầu thực sự nắm quyền lãnh đạo nhà nước.

Quan điểm này thấy rõ trong cuốn Chiến tranh tiền tệ [1]. Sách trích dẫn nhiều tài liệu của phương Tây, đưa ra những tư liệu giật gân, không rõ độ tin cậy, như :

Từ thế kỷ XIX, nền tài chính toàn thế giới thuộc quyền kiểm soát của gia tộc Rothschild (người Do Thái) có tổng tài sản tích lũy hơn 50 nghìn tỷ USD ( ?), gấp 4 lần GDP nước Mỹ. Rothschild Family hiện có tài sản 500 tỷ USD, đứng đầu tập đoàn tài chính quốc tế và kiểm soát tất cả các chính quyền phương Tây thông qua hệ thống ngân hàng (?);

Cơ quan Dự trữ Liên bang FED, tức Ngân hàng Trung ương Mỹ, là một ngân hàng tư nhân! Chủ tịch FED đều là người Do Thái (gần đây là Greenspan, nay là Bernanke). FED chính là Tổng thống không nhìn thấy đang thống trị nước Mỹ, vì FED có quyền in và phát hành đồng dollar Mỹ, còn gọi đồng tiền của FED (Federal Reserve Note) ;

Chính phủ Mỹ không có cổ phần ở FED. Họ phải vay tiền của FED để chi tiêu với thế chấp là tiền thuế thu nhập (khoản thu tài chính lớn nhất trong nước) do dân Mỹ nộp vào tài khoản của FED. Hiện nay nước Mỹ nợ nước ngoài 2500 tỷ USD (chủ yếu là công trái Mỹ do Trung Quốc, Nhật nắm) nhưng lại nợ FED những 44 nghìn tỷ USD ;

Nhiều TT Mỹ từng kiên quyết chống lại việc các nhà băng châu Âu muốn lập ngân hàng trung ương Mỹ do tư nhân kiểm soát để nắm quyền phát hành tiền tệ. TT Jackson từng giải tán ngân hàng tư nhân, trên bia mộ của ông khắc mỗi một câu: Tôi đã giết ngân hàng. TT Lincoln từng phát hành đồng tiền riêng của chính phủ, gọi là Tiền Xanh (greenback) nhằm phá thế kìm kẹp của đồng tiền do ngân hàng tư nhân phát hành, vì thế ông bị ám sát chết. Nhưng rốt cuộc FED vẫn được lập vào năm 1913, cho dù nhiều TT Mỹ chống lại việc đó ;

Có một Câu lạc bộ tinh hoa thống trị thế giới với nòng cốt là Hội đồng Quan hệ quốc tế Mỹ, nhóm Bilderberg và Ủy ban Ba bên (Trilaterial Commission). Ở đây tinh hoa là các trùm tài chính quốc tế, họ muốn lập chính phủ thế giới và tiền tệ thế giới (?).

Hiện nay dân Mỹ đang lên án các nhà tư bản tài chính là kẻ gây ra khủng hoảng kinh tế. Có điều khó hiểu là G. Soros một trùm tài chính người Mỹ gốc Do Thái lại ủng hộ phong trào này và phản đối việc chính phủ giải cứu các ngân hàng. Soros cũng cam kết hiến tất cả tài sản của mình cho công tác từ thiện.

Thuyết Tinh hoa quyền lực

Trong quá trình nghiên cứu vấn đề cấu trúc quyền lực ở Mỹ, xoay quanh chủ đề nước này sau Thế chiến II có tồn tại quyền lực tập trung hay không, một số học giả tiến bộ Mỹ cho rằng nước Mỹ là do một thiểu số tinh hoa quyền lực gồm những trùm sò của 3 ngành kinh tế, quân sự, chính trị thống trị.

Chế độ phân quyền hai cấp liên bang và bang, nguyên tắc tam quyền phân lập, tập tục hai đảng thay nhau cầm quyền và cơ chế bầu cử dân chủ tạo cảm giác xã hội Mỹ là do dân làm chủ và không có vấn đề quyền lực tập trung ; chính phủ Mỹ là « của dân, do dân, vì dân ». Tỷ phú-nhà từ thiện David Rockefeller từng nói : Tôi tin rằng chính phủ Mỹ là đày tớ của nhân dân chứ không phải ông chủ của họ [2].

Sau thắng lợi tiêu diệt các thế lực độc tài phát xít trong Thế chiến II, nước Mỹ ở vào thời kỳ phồn vinh, phần lớn trí thức Mỹ tự hào cho rằng nước họ là đại diện của quốc gia tự do dân chủ; bất kỳ nhóm lợi ích nào cũng bị các nhóm khác cân bằng và kiềm chế; người dân qua lá phiếu bầu của mình thực hiện quyền làm chủ nhà nước, không tồn tại vấn đề quyền lực quá tập trung.

Quan điểm trên bị lung lay khi xuất hiện cuốn Cấu trúc quyền lực cộng đồng : Một nghiên cứu về các nhà quyết sách (Community Power Structure: A Study of Decision Makers, 1953) của Floyd Hunter và Tinh hoa quyền lực (The Power Elite, 1956) của C. Wright Mills. Hai tác giả giải thích cấu trúc quyền lực theo cách khác với phái chủ nghĩa đa nguyên (pluralism) và phái Mác xít. Đây là bước thăm dò của giới khoa học chính trị về cấu trúc và sự phân phối quyền lực ở Mỹ trên tầng nấc quốc gia, hình thành lĩnh vực nghiên cứu cấu trúc quyền lực trong ngành khoa học xã hội và chính trị.

Mills cho rằng cấu trúc quyền lực ở Mỹ đã có thay đổi bản chất: quyền lực nhà nước quan trọng nhất đã tập trung vào 3 lĩnh vực kinh tế, chính trị và quân sự; 3 lĩnh vực đó hòa quyện với nhau, những người nắm 3 loại quyền lực này là các trùm tập đoàn công ty, chính khách trùm sò và lãnh tụ quân sự. Họ cấu tạo nên tinh hoa quyền lực của nước Mỹ, có lợi ích nhất trí, gắn kết nhau cùng hoạch định các quyết sách trên phạm vi toàn quốc, là một « tập đoàn nhỏ » khống chế quyền lực tập trung.

Mills vạch trần sự thật: phía sau sự phồn vinh, chế độ dân chủ mà người Mỹ tự hào đang bị đe dọa nghiêm trọng ; trong thời gian chiến tranh lạnh, quyền lực của đông đảo nhân dân Mỹ đang bị mất dần. Các giám đốc điều hành (CEO) đại công ty đến nhậm chức trong chính phủ Mỹ (như sau này McNamara Chủ tịch công ty Ford Motor làm Bộ trưởng Quốc phòng), tướng lĩnh cấp cao trong quân đội chuyển sang lãnh đạo đại công ty; quyền lực đang tập trung vào tay các nhà lãnh đạo quân đội, công ty và chính khách, tức nhóm tinh hoa thống trị quốc gia. Hơn thế nữa, địa vị của giới lãnh đạo quân đội và đại công ty đang lên cao, địa vị của các nhà chính trị thì đang hạ thấp. Mills và Hunter cho rằng quyền lực thoạt tiên bén rễ trong các tổ chức chứ không phải trong các cá nhân, các hội đoàn, nhóm lợi ích và đảng phái như nhiều nhà chính trị dòng chính quan niệm, cũng không phải là các giai cấp như các nhà Mác xít nghĩ.

Mills đồng ý với 3 tiêu chuẩn phân chia các tầng lớp xã hội do Max Weber đề xuất: tiền vốn (tư bản), quyền lực và danh vọng (3 thứ này có thể chuyển hóa lẫn nhau). Ông vạch ra sai lầm của Thuyết cân bằng phổ biến trong nhận thức của người Mỹ. Cơ chế tam quyền phân lập nhằm ngăn chặn sự tập trung quyền lực, nhưng trong thực tế cơ chế đó bị thách thức. Dân chúng chỉ chú ý tới tầng lớp trung lưu mà mơ hồ về cấu trúc quyền lực tổng thể, nhất là tầng lớp trên và tầng lớp dưới. Tầng lớp trên ngày càng nhất thể hóa và đã xuất hiện tinh hoa quyền lực. Ông cho rằng CNTB Mỹ là CNTB quân sự ; mối quan hệ quan trọng nhất giữa đại công ty với nhà nước thì xây dựng trên sự nhất trí về nhu cầu của quân đội và công ty. Sự nhất trí đó tăng cường sức mạnh của mỗi bên và làm suy yếu vai trò của các chính khách.

Giới truyền thông đại chúng Mỹ giúp các nhân vật tinh hoa quyền lực có được vinh quang mà tầng lớp trên ở bất cứ nước nào cũng chưa từng được hưởng. Truyền thông đại chúng và cơ chế giáo dục ở Mỹ đã che giấu sự vô đạo đức của tầng lớp trên và việc tầng lớp này tước đoạt quyền lợi của dân chúng.

Wright Mills là nhà phê phán xã hội có ảnh hưởng nhất ở Mỹ thập niên 1950. Thuyết Nước Mỹ tồn tại tinh hoa quyền lực cấu tạo bởi nhóm 3 đại gia (The Big Three, gồm các trùm chính quyền, quân đội, công ty độc quyền) của ông được gọi là chủ nghĩa Mills (Millsian). Nó cùng với chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa đa nguyên tạo ra cục diện bộ ba ở Mỹ. Quan điểm tiến bộ của Mills khiến ông bị một số học giả cho là thân Fidel Castro (ông có sang thăm Cuba mấy lần), thân cộng sản ; ông từng có ý định bỏ nước Mỹ sang sống ở Anh. Trong hơn 50 năm qua sách Tinh hoa quyền lực được tái bản nhiều lần. Tuy tình hình xã hội Mỹ ngày nay khác ngày ấy, nhưng quan điểm của Mills hiện vẫn có giá trị trong việc giải thích cấu trúc quyền lực ở Mỹ.

Những người theo thuyết cân bằng và theo chủ nghĩa đa nguyên công kích thuyết tinh hoa quyền lực; họ cho rằng trải qua cuộc cách mạng quản lý, CNTB gia tộc đã suy yếu, xã hội phương Tây không còn tồn tại tinh hoa đơn nhất và tập trung (tức tinh hoa quyền lực) nữa, mà chỉ còn một quần thể tinh hoa đã phân tán về quyền lực và cạnh tranh lẫn nhau.

Phái Mác xít giải thích cấu trúc quyền lực từ điểm xuất phát là sự đối kháng giai cấp và nhấn mạnh đấu tranh giai cấp xảy ra ở mọi nơi mọi lúc; họ cho rằng việc Mills bỏ khái niệm giai cấp thống trị, đưa ra khái niệm tinh hoa quyền lực, nhấn mạnh mối quan hệ giữa tinh hoa quyền lực với thể chế là cách làm không triệt để, dễ đi tới coi nhẹ tác dụng chủ đạo quá trình quyết sách của của giới tinh hoa thương mại, hạ thấp kinh tế xuống ngang hàng với chính trị và quân sự.

Quan điểm Tinh hoa quyền lực của W. Mills có ảnh hưởng rất lớn tới phong trào phản chiến và phong trào sinh viên ở Mỹ hồi thập niên 60. Đáng tiếc ông mất sớm (1916-1962) nên không thể tiếp tục cống hiến trên lĩnh vực này.

Phái theo chủ nghĩa phê phán (criticism) ca ngợi cách đặt vấn đề có tính phê phán của Mills ; tuy không hoàn toàn đồng ý với ông nhưng họ viết khá nhiều sách phát triển học thuyết của ông.

Trong số các tác phẩm ấy, đáng kể nhất là cuốn Ai thống trị nước Mỹ? (Who Rules America?) của G.W.Domhoff xuất bản năm 1967, được xếp thứ 12 trong số 50 bestseller về xã hội học thời gian 1950-1995. Sách này sau đó lại bổ sung và tái bản, đến năm 2010 đã xuất bản lần thứ 6, có những thông tin về Barack Obama.

Tiếp đó là cuốn Ai đang thống trị nước Mỹ? (Who’s Running America?) của Thomas R. Dye, xuất bản năm 1976, mỗi đợt bầu Tổng thống mới lại tái bản có bổ sung, đến nay đã có bản thứ 7 (The Bush Restoration). Bản nào cũng có một chủ đề: nước Mỹ vẫn bị thống trị bởi các nhóm tinh hoa quyền lực chiếm địa vị cao trong các thiết chế quan trọng.

Nhiều năm qua, giới trí thức Mỹ không ngừng tranh luận vấn đề Ai thống trị nước Mỹ. Trên mạng có riêng một website Who Rules America.net dành cho việc này. Hai phái chủ nghĩa đa nguyên và chủ nghĩa tinh hoa (Elitism) hăng hái tranh cãi với nhau.

Dư luận dường như nhất trí ở một điểm: nước Mỹ không do số đông (masses) lãnh đạo. Vấn đề là nước này có tồn tại tinh hoa quyền lực hay không ?

Cuốn Ai thống trị nước Mỹ: Sự biến đổi quyền lực, chính trị và xã hội (Who Rules America? Power, Politics and Social Change) của G.W.Domhoff bản in năm 2006 được coi là tác phẩm kinh điển nghiên cứu về tinh hoa quyền lực nước Mỹ. Domhoff khẳng định nước Mỹ bị thống trị bởi tầng lớp tinh hoa đang sở hữu và điều hành những tài sản có thu nhập lớn như ngân hàng và tập đoàn công ty, họ làm chủ cấu trúc quyền lực chính trị và kinh tế của nước Mỹ. Họ là chủ sở hữu hoặc CEO các công ty làm ra khối lượng của cải khổng lồ, là những cố vấn pháp lý của công ty… gọi chung là cộng đồng doanh nhân.

Khái niệm tinh hoa quyền lực do Mills đề ra đã làm rung chuyển giới trí thức Mỹ và gây ra cuộc tranh luận suốt hơn nửa thế kỷ qua. Cuộc tranh cãi đó động chạm tới nhận thức về các khái niệm tinh hoa, dân chủ, quyền lực, nhận định về cấu trúc quyền lực và xu thế phát triển của nó trong xã hội Mỹ, và dẫn tới các vấn đề thuộc khái niệm rộng hơn – lĩnh vực xã hội học tinh hoa (Sociology of Elites). Các nhà chính trị học nhiều nước, kể cả Trung Quốc, đang vận dụng quan điểm của Mills để xem xét vấn đề tinh hoa quyền lực tại nước mình.

Vai trò của các TT Mỹ

Dĩ nhiên TT Mỹ thuộc vào tầng lớp tinh hoa quyền lực, tuy rằng không ít TT xuất thân nghèo hoặc bình thường. Vì do dân trực tiếp bầu ra, nói chung các TT đều đại diện cho lợi ích của đa số nhân dân. Nhưng do chịu rất nhiều sức ép từ các lực lượng trong xã hội cho nên họ phải thỏa hiệp, không phải bao giờ cũng hoàn toàn vì lợi ích của đa số dân.

Có một sự thật không thể phủ nhận là nước Mỹ tồn tại một số nhóm lợi ích cực đoan có những hoạt động vi phạm truyền thống dân chủ của nước này và gây khó khăn cho các TT.

Đáng kể nhất là Tổ hợp công nghiệp-quân sự (Military-industrial complex). Trong diễn văn từ nhiệm đọc ngày 17/1/ 1961, TT Eisenhower từng cảnh báo nhân dân Mỹ: Trong khi thừa nhận ngành công nghiệp và quân sự có cống hiến cho việc đảm bảo an ninh của nước Mỹ, chúng ta không thể không thấy là sự cộng tác giữa chính phủ liên bang với giới quân sự và giới lãnh đạo ngành công nghiệp tuy cần thiết nhưng lại có thể dẫn đến tệ nạn lạm dụng quyền lực. Ông khuyến cáo nhân dân Mỹ cần chú ý giám sát tổ hợp công nghiệp-quân sự [3].

Oliver Stone đạo diễn bộ phim JFK (phim về vụ ám sát TT J.Kennedy) từng nói Kennedy bị ám sát vì ông muốn chấm dứt cuộc chiến tranh Việt Nam nhưng tập đoàn công nghiệp-quân sự không đồng ý. Phát biểu của Stone làm rung chuyển dư luận, vì các báo cáo điều tra vụ ám sát Kennedy đều không nói gì tới vấn đề này. Năm 1968 Thượng nghị sĩ Robert Kennedy bị ám sát chết trong khi tranh cử TT cũng chỉ vì muốn kế tục nguyện vọng kết thúc chiến tranh Việt Nam. Về sau con trai duy nhất của J. Kennedy ở tuổi 40 cũng chết trong một tai nạn máy bay riêng bí ẩn, đúng như lời bà góa Jacqueline nói: Bọn chúng muốn tiêu diệt gia tộc Kennedy.

Thứ hai là Tập đoàn chính trị Do Thái. Cộng đồng người Mỹ gốc Do Thái có gần 7 triệu người, chỉ chiếm 2,5% số dân nhưng có ảnh hưởng lớn tới chính trường Mỹ; chủ yếu vì họ hăng hái nhất trong việc tham gia bầu cử, hơn nữa họ giàu có và khống chế bộ máy truyền thông nước này [4]. Tuy chưa có chính trị gia gốc Do Thái nào làm TT Mỹ nhưng họ thường sử dụng chiêu vận động hành lang nghị trường để gây ảnh hưởng tới chính sách đối ngoại, khiến chính phủ Mỹ tỏ ra thiếu công bằng trên vấn đề Trung Đông. Chẳng hạn Mỹ đã viện trợ không hoàn lại cho quốc gia Do Thái Israel tổng sộng khoảng 1700 tỷ USD nhằm giúp nước này có sức mạnh kinh tế và quân sự đủ để trụ được trong vòng vây của thế giới A Rập. Thái độ thiên vị ấy đã làm người A Rập căm phẫn, hậu quả khiến nước Mỹ phải trả giá cho cuộc chiến dai dẳng chống khủng bố.

Tất cả các đời TT Mỹ đều phải đương đầu với những nhóm lợi ích nói trên. Nhiều người đã dũng cảm đấu tranh chống lại. Sáu trong số 44 TT Mỹ từng bị ám sát, trong đó 4 người chết [5], có lẽ vì họ đi ngược lại ý đồ của các nhóm ấy.

Một lực lượng nữa thường xuyên gây sức ép với chính quyền Mỹ là quần chúng nhân dân. Ngoài việc thông qua các đại diện của mình trong quốc hội để tác động lên chính phủ, phần lớn dân Mỹ, nhất là tầng lớp trung lưu, đều ở trong các tổ chức của công dân, như các tổ chức phi lợi nhuận (Non-profit Organization, NPO, thí dụ công đoàn, các hội ngành nghề, quỹ từ thiện, đoàn luật sư, think-tank v.v..). Các tổ chức này là nơi liên kết dân chúng để thống nhất quan điểm, bảo vệ lợi ích tập thể của họ, thực hiện xã hội hòa hợp và giám sát chính quyền. Các tổ chức đó hình thành xã hội công dân (XHCD), một lĩnh vực tồn tại độc lập với nhà nước, thực sự là đối trọng đáng vì nể của chính phủ.

Lực lượng XHCD Mỹ rất hùng hậu. Năm 2010 nước Mỹ có hơn 1,5 triệu NPO có tính quốc tế (U.S.-based International Nonprofit Organization), giả thử Ban quản trị mỗi NPO có 10 người, thì ít nhất có 15 triệu dân quản lý NPO, nếu kể cả thành viên chính thức và không chính thức thì số người tham gia NPO có cả cả trăm triệu. Tổng tài sản của các tổ chức này lên tới 3000 tỷ USD, như Quỹ Bill & Melinda Gates có tài sản 33,5 tỷ USD, tương đương GDP quốc gia xếp thứ 82 về thu nhập, trên cả 111 quốc gia khác.

NPO tận dụng các phương tiện truyền thông, mạng Internet, nhất là các mạng xã hội, tạo ra sức ép dư luận rất lớn mà chính quyền không thể bỏ qua. NPO không chỉ nói lên ý kiến nguyện vọng của dân đối với nhà nước mà còn tổ chức các phong trào đấu tranh đòi chính quyền sửa các chính sách dân không tán thành. Thí dụ những cuộc mít tinh biểu tình rầm rộ có mấy trăm nghìn người tham gia phản đối sự phân biệt chủng tộc và chống chiến tranh Việt Nam hồi thập niên 60 đã làm chính phủ Mỹ phải thay đổi chính sách liên quan. Một số cuộc biểu tình kéo dài ngày này sang ngày khác làm chính quyền đau đầu. Những cuộc đấu tranh ấy có thể dẫn tới khủng hoảng chính trị nếu chính phủ không khéo léo giải quyết các yêu cầu của dân chúng.

Nước Mỹ gồm rất nhiều sắc tộc từ khắp thế giới đến định cư chứ không có sự thuần nhất chủng tộc (như Đức, Nhật thời xưa), quan niệm giá trị, tư tưởng chính trị của dân chúng rất đa dạng phức tạp, lại thêm giá trị cá nhân và vai trò làm chủ của công dân được đề cao thái quá, vì thế công việc của chính quyền gặp nhiều khó khăn. Thí dụ thị trấn Ojai ở bang California chỉ có 8000 dân (phần lớn là người hưu trí), trữ lượng dầu mỏ dưới lòng đất rất lớn nhưng dân ở đây đồng tâm nhất trí không cho khai thác dầu, chính phủ và các công ty cũng đành chịu.

Nhìn chung các TT Mỹ luôn ở vào thế trên đe dưới búa, phải vắt óc nghĩ cách thỏa hiệp điều hòa lợi ích của những phía gây sức ép lên họ. Các TT đều đau đầu vì phải đối phó với Quốc hội, đảng đối lập, dân chúng và các nhóm lợi ích. Chưa một TT nào giàu lên nhờ chức vụ của mình, ngược lại chỉ nghèo đi và tổn thọ [6].

***

Nước Mỹ hiện nay (2012) đang ở vào thời kỳ khủng hoảng và suy thoái kinh tế. Đây là hậu quả tất nhiên của việc chuyển đổi mô hình kinh tế và toàn cầu hóa kinh tế. Thí dụ việc chuyển những ngành công nghiệp dùng nhiều nhân lực sang các nước nghèo, việc ưu tiên phát triển công nghệ cao và dịch vụ tài chính (là những ngành dùng ít nhân công nhưng thu lợi cao) đã gây ra nạn thất nghiệp tại nước Mỹ. Đây cũng là hậu quả của lối tiêu dùng kiểu Mỹ: làm ít tiêu nhiều, vay tiền của tương lai để chi tiêu hôm nay, rốt cuộc ngập trong nợ nần. Vì toàn cầu hóa kinh tế là trào lưu không thể ngăn cản cho nên khó tránh khỏi khủng hoảng kinh tế. Hơn nữa khủng hoảng diễn ra trên phạm vi toàn cầu nên từng quốc gia rất khó vượt qua nếu không có sự phối hợp toàn cầu.

Cũng như ở nhiều nước phương Tây khác, chính phủ Mỹ tỏ ra bất lực trong việc đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng. Dân chúng (chủ yếu là tầng lớp trung lưu) nhận thấy phải tự cứu mình, họ tổ chức Phong trào Chiếm Phố Wall, nêu khẩu hiệu “Chúng tôi là 99%” chống lại tình trạng 1% số dân nắm giữ 40% tài sản và chiếm hơn 20% thu nhập, chống lại việc nhà nước tài trợ cứu các ngân hàng. TT Obama và một số nhà giàu Mỹ cũng ủng hộ phong trào này.

Hiện nay giới tinh hoa tài chính Mỹ đang là đối tượng bị phong trào nói trên lên án, bởi họ chỉ tìm cách hợp pháp tăng thu nhập của mình trong khi thu nhập của dân bị giảm do khủng hoảng kinh tế.

Mối quan hệ tay ba chính quyền-dân chúng-nhà tư bản ngày một căng thẳng. 69% dân Mỹ không tin vào hệ thống ngân hàng và tài chính, 65% không tin Chính phủ, Quốc hội, và các đại công ty. Phong trào Chiếm Phố Wall đang lan rộng. Nền dân chủ Mỹ bị lung lay. Khủng hoảng kinh tế có khả năng trở thành khủng hoảng chính trị.

Đại suy thoái kinh tế thế giới thập niên 30 thế kỷ XX dẫn đến sự xuất hiện những lãnh tụ tài giỏi như TT F. Roosevelt ở Mỹ, Churchill ở Anh hoặc các nhà độc tài như Mussolini ở Ý, Hitler ở Đức (do các cử tri Đức bầu lên). Cuộc tranh cử TT Mỹ vẫn đang tiếp diễn nhưng chưa đến hồi quyết liệt. Lập trường ủng hộ dân của Obama có thể làm ông gặp khó trong cuộc bầu cử năm 2012; nhưng hiện nay xem ra chưa thấy ứng viên TT nào sáng giá hơn, có khả năng cứu nền kinh tế Mỹ. Người ta chỉ có thể chờ xem.

Nguyễn Hải Hoành

________

[1] Chiến tranh tiền tệ, bản dịch tiếng Việt, Nxb Trẻ, 6/2008

[2] http://www.brainyquote.com/quotes/a…

[3] Eisenhower warns of military-industrial complex

http://www.history.com/this-day-in-…

http://www.tapchicongsan.org.vn/Hom…

[4] Người Do Thái ở Mỹ – lực lượng quyết định chính sách của Mỹ tại Trung Đông

[5] Các TT Lincoln, Garfield, McKinley và Kennedy bị ám sát chết; hai TT Truman và Reagan bị ám sát nhưng không chết.

[6] Nước Mỹ áp dụng chế độ lương thấp cho viên chức nhà nước (khác với Singapore); lương TT không cao hơn giáo sư ĐH. Có 6 TT Mỹ về hưu trong nghèo túng, mắc nợ không trả được. 4 TT chết khi đang tại chức (Harrison, Taylor, Harding, F.Roosevelt)

Luật sư tư vấn miễn phí

Gọi ngay
0902818158- 0906834543
0906834543
0902818158

Tin pháp luật

CÁC ĐỐI TÁC

  • Nhà Đất Phúc An Khang
  • The Diplomat
  • The NewYork Review of Book
  • CogitAsia
  • Reuters
  • Viet Studies
  • The NewYork Times
  • TIME
  • Bloomberg Bussiness