TIN TỨC

fanpage

Thống kê truy cập

  • Online: 6
  • Hôm nay: 1
  • Tháng: 3880
  • Tổng truy cập: 5164294
Chi tiết bài viết

Ngoại trưởng Kissinger: Xin thành thật cám ơn.

Ngoại trưởng Kissinger: Xin thành thật cám ơn. Tôi phải lưu ý quý vị rằng có một kỷ lục rất khó phá được, đó là lúc tôi vừa là ngoại trưởng, vừa là cố vấn an ninh, quan hệ giữa Bộ Ngoại Giao và Nhà Trắng đã đạt đến một điểm cao chưa từng có (tiếng cười).

Bây giờ, tôi có 20 phút để phát biểu và sau đó trả lời câu hỏi. Khi tôi nghe rằng có người đã xem đến quyển sách của tôi vào năm 1958 (A World Restored – Một Thế Giới Được Phục Hồi phát hành năm 1954) một quyển đã bị tám nhà xuất bản tư nhân và bốn nhà xuất bản đại học từ chối, và đã bán được 1400 bản, thì tôi ý thức rằng đa số những người trong hội trường hôm nay có lẽ chưa sanh ra khi quyển sách đó đến tay độc giả. Richard Holbrooke và tôi tối hôm qua đã bàn về thành phần cử tọa hôm nay, và nghĩ rằng có một số ít đã sống qua những kinh nghiệm như chúng tôi đã trải qua, với những kinh nghiệm sống sôi nổi và biến chuyển không thể tái diễn được.

Còn một nhóm khác (trong cử tọa) thì đã học về những biến cố này từ những giáo sư mà phần đông đã tham gia vào phong trào phản đối trong giai đoạn đó, và họ có quan điểm của họ. Và rồi có một thế hệ mới, và đối với thế hệ này thì những việc này nằm trong quá khứ rất xa. Đêm hôm qua, khi tôi suy nghĩ về việc này, thì nhận thấy rằng đối với thế hệ lớn tuổi của tôi, sự bại trận của Pháp vào năm 1940 là một kinh nghiệm kinh khiếp, đặc biệt là cho những ai đã sống tại Đức Quốc Xã.

Thật ra thì chiến tranh Việt Nam đối với ngày hôm nay cũng tương tự như năm 1900 đối với năm 1940. Đối với tôi, những gì xảy ra vào năm 1900 không liên quan gì lắm đối với những kinh nghiệm của tôi. Ngày hôm nay, tôi đề nghị trình bày với quý vị hoàn cảnh đã đưa đẩy tôi tham gia vào những vấn đề thời cuộc. Tôi cũng sẽ nói về ý nghĩa của những diễn biến đó đối với thế hệ tôi. Rồi sau đó, quý vị có thể tùy nghi đặt câu hỏi.

Trước hết, có một đặc điểm về trường hợp cá nhân tôi quý vị cần hiểu rõ. Tôi có một vị thế cố vấn an ninh rất đặc biệt. Điều này không thể xảy ra trở lại trong thời buổi hôm nay. Tôi chưa từng gặp Richard Nixon khi tôi được ông bổ nhiệm. Trước đó, tôi đã bỏ 12 năm của đời tôi để tìm cách ngăn chận không cho ông ta trở thành tổng thống (tiếng cười). Lúc đó tôi là cố vấn trưởng về chính sách đối ngoại cho Nelson Rockefeller. Cho nên khi tôi thấy một số sách kể lại rằng tôi đã sắp đặt kỹ càng việc tiến thân vào chức vụ đó … quý vị cần biết rằng tôi là bạn thân của Nelson Rockefeller, và thật ra thì tôi quen với Hubert Humphrey nhiều hơn. Và tôi hoàn toàn không quen biết Nixon.

Đối phó với vấn đề Việt Nam là một công việc trí thức, và một công trình tầm quốc gia. Như đa số quý vị biết, trước đó tôi là một tư vấn cho Nhà Trắng thời Kennedy trong cuộc khủng hoảng Berlin, nhưng công việc tôi không liên quan gì đến Việt Nam. Nhưng nhờ vậy, tôi quen biết một số nhân vật then chốt từ chính quyền trước. Họ là những bạn của tôi, và tôi kính trọng những người này. Trước đó tôi đã rất khâm phục tinh thần yêu nước của Dean Rusk và cách hành xử của ông khi tại chức. Và qua đó tôi đã thấy được nỗi vất vả của những ai phải đối phó với vấn đề Việt Nam.
Cho nên đối với tôi, những cuộc tranh cãi diễn ra sau đó làm tôi thật sự đau lòng và theo tôi, những tranh cãi đó có tính cách nội chiến đúng như sau này người ta thường nghĩ. Theo quan điểm của tôi, tôi biết vì sao thế hệ đi trước đã bước chân vào chiến tranh Việt Nam. Tôi đồng ý với một số quan điểm của thế hệ này, và không đồng ý với một số quan điểm khác của họ. Nói chung, tôi thấy không có gì phải đạo đức hóa vấn đề, gây chia rẽ trong nội bộ chúng ta. Nhưng tôi đã lầm to khi mới bước vào chính quyền cứ nghĩ rằng tôi có thể đóng góp bằng cách dung hòa những quan điểm khác nhau.

Chiến tranh Việt Nam là một thảm kịch không phải vì là một vấn đề gây bất đồng ý kiến. Điều này tất nhiên không tránh khỏi do tính phức tạp của vấn đề. Nhưng lòng tin giữa người Mỹ lẫn nhau đã bị tàn phá. Đây là lần đầu tiên Mỹ đụng phải những giới hạn trong chính sách đối ngoại và chấp nhận điều này là cả một đau đớn.

Cho nên những chỉ trích thông thường nhắm vào các quyết định có thể bị đặt nghi vấn ở giai đoạn này hay giai đoạn kia vô hình chung biến thành một vấn đề đạo đức. Trước hết, chính sách ngoại giao Mỹ nói chung bị xem như không còn đạo đức, và sau đó nước Mỹ bị xem như không còn đủ khả năng đạo đức để theo đuổi một chính sách ngoại giao thuần túy. Thảm kịch là ở đó.

Quan điểm tôi tuyệt đối không thay đổi về chủ đề này. Tôi nghĩ đa phần những gì đã đổ vỡ trong vấn đề Việt Nam là do chúng ta tự làm hư việc. Mặc dù tôi ủng hộ chính sách hiện nay của nhà cầm quyền đối với Việt Nam, và rất vui mừng thấy sự hiện diện của những đại diện Việt Nam tại đây, tôi vẫn giữ vững lập trường của tôi như từ trước. Có lẽ tôi sẽ hài lòng với một kết cuộc khác, hay ít nhất tôi ước muốn kết cuộc tại Việt Nam đã không liên quan mật thiết với tình trạng phân hóa của chúng ta. Tôi mong quý vị hiểu rằng đó là cái nhìn của tôi khi trước và cũng là cái nhìn của tôi bây giờ.

Gần đây tôi vừa đọc qua một quyển sách phát hành tại Hà Nội về những đàm phán giữa tôi và Lê Đức Thọ mà theo tôi sách đó kể lại chính xác đến 98 phần trăm. Những điểm không chính xác là những điểm không quan trọng hoặc là vấn đề quan điểm. Và sách đó làm rõ nét một khác biệt căn bản giữa Mỹ và Hà Nội: Mỹ muốn thỏa hiệp, Hà Nội muốn chiến thắng.

Một trong những điều lý thú là việc tôi phải đối phó với Lê Đức Thọ hằng ngày, và ông ta có thể rất khó chịu. Ông ta dường như một bác sỹ giải phẫu dùng dao mổ chúng tôi với nhiều khéo léo, và luôn luôn lịch sự. Nhưng theo quyển sách nói trên, thỉnh thoảng ông ta nhận lệnh từ Hà Nội rằng đàm phán không thể tiếp tục cho đến khi có thay đổi trên mặt quân sự. Và mục đích của ông ta là đẩy chúng tôi đến điểm đó. Tôi nói điều này với tất cả sự tôn trọng dành cho ông ta. Việc này cũng dễ hiểu thôi. Người Việt Nam đã chiến đấu 50 năm không phải để đi đến thỏa hiệp mà để thống nhất đất nước họ. Mục đích khách quan của chính sách Mỹ là nhằm bảo vệ một Nam Việt Nam có thể đứng vững với triển vọng là sẽ có cơ hội để trưởng thành. Và đó là mục đích chúng tôi theo đuổi hằng ngày (trong đàm phán). Đó là một thực tế phải nhìn nhận.

Trong nhận định về những gì chúng tôi đã làm hoặc không làm trong cuộc đàm phán, và những gì chúng tôi đáng lẽ phải đề nghị hay không đề nghị, chỉ có một vấn đề không giải quyết được. Vấn đề đó là Nam Việt Nam có nên trở thành một thực thể chính trị hay không, có được phép phát triển những cơ chế riêng hay không, hay ngược lại, ta phải đặt mục tiêu đầu tiên là thống nhất. Tất cả những đề nghị đã gây tranh cãi sôi nổi như ngưng bắn và những dàn xếp này nọ đã được giải quyết mau lẹ. Vấn đề không giải quyết được là liệu chính quyền hiện hữu của Nam Việt Nam có thể được duy trì, và liệu chính quyền đó có điều kiện sống còn hay không. Một khi việc đó đã ngã ngũ thì chúng tôi đi đến đồng thuận rất mau. Vài người trong hội trường này có thể nghĩ đồng thuận đã đạt quá mau. Tôi sẵn sàng trả lời những câu hỏi về vấn đề này và những gì liên quan. Nhưng đây là một điểm quý vị cần hiểu rõ.

Chúng ta hãy nhìn lại tình hình ra sao lúc chính phủ Nixon nhậm chức. Cuộc chiến đã kéo dài từ 4 đến 5 đến 15 năm tùy theo cách tính theo điểm khởi đầu là giai đoạn Truman hay giai đoạn Kennedy hoặc lúc chúng ta gởi quân tác chiến sang. Vào thời điểm đó, (lúc Nixon nhậm chức) có 550 ngàn (đúng hơn là 536 ngàn) lính Mỹ tại Việt Nam. Vào năm 68, trong phần nửa năm sau của 1968, mức thương vong là khoảng 400 một tuần. Và cuộc tấn công Tết (Mậu Thân) đã xảy ra đầu năm 1968. Nhiều người hôm nay xem Tết Mậu Thân là một chiến thắng quân sự của Mỹ, nhưng một chiến bại mặt tâm lý. Lúc đó thì trận đó không được nhìn nhận là một chiến thắng quân sự, và có tác động chứng tỏ rằng Mỹ không thắng được. Những cuộc đàm phán chỉ mới bắt đầu. Lập trường chính thức của Mỹ là rút quân song phương trong đó ta sẽ bắt đầu rút sau Bắc Việt. Và chính phủ trước đã để lại tài liệu do Harriman và Vance thảo, với nhận định rằng sau khi dàn xếp, số lính Mỹ cần phải giữ lại tại Việt Nam là 260 ngàn.

Chiến lược căn bản và những gì chúng tôi dự định thực hiện là như thế này. Có hai trường phái, nhưng chỉ có một là được cứu xét để thực thi. Quan điểm cá nhân của tôi là chúng ta phải đưa ra một đề nghị hòa bình sâu rộng và toàn diện. Nếu đề nghị bị bác bỏ, ta sẽ gia tăng hoạt động quân sự rồi xem chúng ta đạt được gì. Với đề nghị đó, cựu Ngoại trưởng Vance đã sang Mát-scơ-va để thương thuyết với Việt Nam. Và chúng ta trình bày với Liên-Xô một đề nghị đi xa hơn bất cứ những đề nghị nào khác. Nhưng chúng ta không bao giờ được trả lời. Người Nga không bao giờ trả lời và người Việt Nam không bao giờ trả lời.

Lúc đó chúng tôi từ từ nghiên cứu nới rộng hoạt động quân sự, và việc này có thể những nhà báo điều tra tìm hiểu thêm. Nhưng quyết định cuối cùng đi đến là chúng tôi sẽ rút quân dần dần, cùng lúc đó đàm phán, và chúng tôi hy vọng rằng mọi việc có thể đưa đẩy khiến Hà Nội chấp thuận đề nghị chính trị căn bản của ta. Tôi không thể đi vào chi tiết của từng giai đoạn. Nhưng trong vòng bốn năm, chúng ta đã đạt được mục tiêu nói trên.

Một trong những người cộng tác với tôi lúc đó là Winston Lord. Khi diễn ra cuộc hành quân sang Cam-Pu-Chia, ông ta tỏ ý muốn từ chức. Tôi nói với ông rằng: “Anh có thể từ chức rồi cầm biểu ngữ (phản đối) đi chung quanh tòa nhà này, hoặc anh có thể giúp tôi chấm dứt vấn đề này. Anh thử hình dung trong 20 năm nữa, anh sẽ hài lòng hơn với lựa chọn nào”. Và ông ta đã ở lại.
Nhiều khi người ta hỏi tôi giây phút nào cảm động nhất khi tôi nằm trong chánh quyền. Tôi phải nhìn nhận lúc tôi càm động nhất là vào tháng 10 năm 1972, khi Lê Đức Thọ chấp nhận những đề nghị mà chúng tôi đưa ra hồi tháng Giêng năm đó, về cơ cấu của chánh quyền (sẽ hình thành). Thật ra thì ông ta chỉ đọc một tuyên cáo, nói rằng “Chung quy, đây là những gì các anh đã đề nghị”. Khi ông ta đọc xong, tôi bắt tay Winston và nói “Chúng ta đã thành công”. Bây giờ nghĩ lại thì chúng ta đã không thành công vì nhiều lý do. Có lẽ một cách khách quan thì những gì chúng tôi muốn thực hiện là bất khả thi, nhưng tôi phủ nhận điều đó. Và vấn đề này thì có thể còn tiếp tục tranh luận.

Nhưng vấn đề chủ yếu là kết hợp của vụ Watergate và chia rẽ nội bộ chúng ta đã đưa đến cắt giảm 2/3 viện trợ cho Việt Nam trong khi giá dầu lửa đang gia tăng, và với kết quả là viện trợ quân sự cho Việt Nam bị cấm. Điều này chúng ta chưa từng đòi hỏi nơi một đồng minh của chúng ta. Đó là cái nhìn của tôi về những gì đã xảy ra.

Tất nhiên có nhiều giai đoạn trong tiến trình đó. Nhưng tôi xin chỉ đề cập đến một điểm. Trung Quốc và chúng tôi đã đạt một thỏa thuận về Cam-Pu-Chia và thỏa thuận đó dự định có hiệu lực sau một chuyến đi của Sihanouk. Và trong đó có khoản về việc Mỹ dội bom tại Cam-Pu-Chia, và chúng tôi vẫn duy trì dội bom vì Khờ-Me Đỏ không tôn trọng ngưng bắn.

Khi thượng nghị sĩ Magnuson viếng thăm Trung Quốc, ông ta gặp Chu Ân Lai, và Chu Ân Lai than phiền về việc Mỹ dội bom Cam-Pu-Chia vì vấn đề liên quan đến phần cam kết Chu Ân Lai xem đã đạt được. Magnuson khi đó nói: “Ông đừng lo, Quốc Hội đã vừa chấm dứt việc dội bom”. Chu Ân Lai đã nổi giận và bắt đầu đập bàn vì điều này làm ông mất uy tín. Nhưng điểm chủ yếu tôi muốn nêu là như thế này: chúng ta không thể theo đuổi một cuộc chiến khi nội bộ đất nước chia rẽ. Chúng ta có bổn phận tin tưởng nơi chính quyền chúng ta. Chúng ta không thể biến những vấn đề nội bộ thành một cuộc tranh chấp đạo đức trong đó một số người tự cho độc quyền thiện chí (…không nghe rõ)
Có một số bài học cho chúng ta. Khi chúng ta dự định lâm chiến, ta cần định rõ ý nghĩa việc này căn cứ trên một phân tách chiến lược toàn cầu. Lý do đưa đến cuộc chiến là một phần định nghĩa thế nào là chiến thắng. Thế bế tắc không phải là một chiến lược, và chiến thắng phải có tính khả thi trong khuôn khổ một khoảng thời gian mà dư luận Mỹ chấp nhận được.

Tôi không thích từ “chiến lược ra đi”. Nếu chúng ta chỉ đến để rồi ra đi thì có lẽ chúng ta không nên đến. Khi được đệ trình lên tổng thống, chiến lược này phải nằm trong một khuôn khổ ngoại giao dài hạn. Ngoại giao và chiến lược phải song hành chứ không thể luân phiên như những giai đoạn của một chính sách. Và điều tiên quyết là chính quyền cũng như giới chỉ trích phải giới hạn tranh cãi, vì sự đoàn kết của đất nước đã và sẽ luôn là niềm hy vọng cho cả thế giới.

Tôi rất vui mừng rằng Richard Holbrooke sẽ nói chuyện sau phần trình bày của tôi. Chúng tôi trải qua những kinh nghiệm giống nhau, nhưng không nhất thiết theo cùng quan điểm, mặc dù chúng tôi luôn tôn trọng nhau. Chúng tôi gặp nhau tại Hà Nội và Sài Gòn khi còn là trai trẻ đầy hứa hẹn, và có lẽ anh Richard nhiều hứa hẹn hơn tôi (tiếng cười). Vào lứa tuổi đó, tôi cứ tưởng là những người cỡ tuổi của tôi bây giờ khi sanh ra là đã già rồi (tiếng cười), tôi cứ tưởng họ luôn trong trạng thái đó.

Xin cám ơn quý vị đã mời tôi. Đây là một dịp đặc biệt và cảm động trong đời tôi. Tôi cũng xin ngỏ lời chào những đại diện Việt Nam ở đây, và bày tỏ nỗi vui mừng trước quan hệ lớn mạnh giữa hai nước chúng ta. Nhưng điều đó không làm giảm nỗi buồn của tôi khi nghĩ đến những gì đã định đoạt chiều hướng của chiến tranh Việt Nam.

Thành thật cám ơn quý vị, và bây giờ tôi sẽ trả lời câu hỏi (tiếng vỗ tay).

Đại Sứ Brynn (chủ tọa): Cám ơn Tiến sĩ Kissinger. Tiến sĩ Kissinger dọn đường khéo léo để đưa chúng ta vào phần thảo luận. Tôi xin yêu cầu quý vị đặt câu hỏi thay vì đưa ra nhận định, để chúng ta không bỏ phí sự hiện diện của Tiến sĩ Kissinger tại đây, trong khoảng từ bây giờ cho đến 11 giờ.

Chúng tôi có hai vị từ Văn Phòng Sử Gia sẽ cầm máy ghi âm hai bên. Nếu muốn đặt câu hỏi, quý vị giơ tay và sau khi trả 50 đồng họ sẽ đến để cho quý vị phát biểu (tiếng cười). Cám ơn quý vị.

Hỏi: Thưa Tiến sĩ Kissinger, tôi muốn hỏi về một điều liên quan đến khái niệm mà các sử gia gọi là chiến lược “khoảng thời gian tươm tất”, tức là quan niệm rằng chính sách của Mỹ là nhằm tạo cách khoảng thời gian vừa đủ giữa khi Mỹ rút đi và khi Cộng Sản chiếm lấy miền Nam. Tôi nghĩ là ông biết một số sự kiện về vấn đề này. Tôi mong ông cho biết lúc đó ông có nghĩ rằng Nam Việt Nam có khả năng đứng vững lâu dài như một quốc gia hay không.

Ngoại trưởng Kissinger: Trước hết, theo quan điểm sử gia thì khi thấy ai khẳng định điều gì, họ cần tự hỏi về bối cảnh khi những khẳng định đó được đưa ra. Anh sẽ thấy rằng những nhận định mà bị ghép vào loại liên quan đến khoảng thời gian vừa phải, hầu hết là những khẳng định nhắm về phía bên kia (phía Cộng Sản). Và ý nghĩa của những khẳng định đó là chúng tôi sẵn sàng chấp nhận một cuộc tranh đua chính trị, và chúng tôi sẽ tôn trọng kết quả của cuộc tranh đua chính trị đó. Nhưng nói như thế không có nghĩa rằng chúng tôi sẽ buông tay trước kết quả của cuộc tranh đua chính trị, mà chúng tôi sẵn sàng ủng hộ người đồng minh trong cuộc tranh đua đó.

Nhưng tại Mỹ thì chúng ta lại có hiện tượng cãi nhau và đòi “Các anh phải rút ra ngay bây giờ. Việc các anh đã can thiệp vào (Việt Nam) là vô đạo đức”. Nhưng rồi sau đó chúng tôi lại bị lên án phản bội khi dự định rút đi và khi chúng tôi đang tranh đấu để tạo một cơ hội cho người dân Nam Việt Nam.

Lúc đó thì chúng tôi ước lượng những gì sẽ xảy ra? Chúng tôi biết thỏa thuận đạt được rất bấp bênh. Chúng tôi biết Bắc Việt không chiến đấu 50 năm chỉ để trở thành một quốc gia Bắc Việt Nam, cho nên chúng tôi nghĩ rằng tranh chấp sẽ tiếp diễn. Chúng tôi nghĩ – và có thể là sai lầm ở đây – rằng người Nam Việt Nam đã chứng minh trong năm 1972 rằng khi có một cuộc tổng tấn công của Bắc Việt, thì họ có thể chịu đựng một chấn động đáng kể mà tiếp tục sống còn về mặt chính trị và ngay về quân sự.

Nếu quý vị nhìn sắp đặt của thỏa thuận thì Bắc Việt có thể giữ lực lượng của họ tại chỗ, nhưng không thể tiếp tế hay đưa vào thêm lực lượng mới. Chúng tôi nghĩ Nam Việt Nam có thể đối phó với tình trạng này. Chúng tôi cũng nghĩ rằng nếu có một cuộc tổng công kích, chúng tôi sẽ can thiệp để giúp người miền Nam, ít nhất là bằng không lực và hải quân. Nhưng điều đó đã bị Quốc Hội cấm 6 tháng sau. Khi các anh đi đến một thỏa thuận, mà anh không được bảo đảm thỏa thuận đó bằng viện trợ kinh tế hay sức mạnh quân sự thì xem như anh đã đầu hàng.

Đành rằng chúng ta không thể cam kết duy trì một chính quyền một cách vĩnh viễn và trong mọi tình huống. Và trong nhãn quang đó thì khái niệm “khoảng thời gian tươm tất” có ý nghĩa của nó. Nhưng mà như quý vị thấy, ngay trong những ngày tháng cuối cùng chúng tôi đã không buông xuôi và bỏ rơi một dân tộc cho số phận của họ. Các anh biết rằng chúng tôi lúc đó ước muốn điều gì. Nhưng chúng tôi chỉ có thể hành động trong phạm vi khả thi. Vừa rồi là tóm tắt suy nghĩ của chúng tôi.

Hỏi: Ông có đề cập trong phần nhận định của ông về dư luận và tầm quan trọng của dư luận Mỹ hiểu theo nghĩa rộng. Tôi muốn hỏi ông về vai trò của truyền thông trong lãnh vực đưa tin và về phương diện ảnh hưởng dư luận. Giới truyền thông lúc đó có ảnh hưởng gì đến chiến lược và chính sách ngoại giao theo đuổi tại Việt Nam, và có ảnh hưởng gì đến kết cuộc tại Việt Nam. Xin cám ơn.

Ngoại trưởng Kissinger: Tôi phân biệt giữa dư luận và truyền thông. Nếu chúng ta có thể định nghĩa được thế nào là dư luận, thì tôi nghĩ dư luận lúc đó ủng hộ chiều hướng chung của chính sách. Ngược lại, giới truyền thông có thái độ rất thù địch và họ tin vào quan điểm cho rằng chính quyền gian ác của Johnson và rồi Nixon có hành vi lừa dối và lường gạt để duy trì chính sách hiếu chiến. Và điều đó gây rất nhiều khó khăn khi chúng tôi muốn thực thi chính sách; lúc đó mọi dấu hiệu đều cho thấy rằng Bắc Việt đang chuẩn bị một cuộc tổng công kích mùa xuân năm 1972. Nhưng chúng tôi phải giảm bớt hoạt động phía ta vì không muốn bị quy trách nhiệm trong biến cố mà chúng tôi biết dù gì cũng xảy ra. Và đó là một trong những cuộc đụng độ (với truyền thông).

Nhưng nhà cầm quyền Nixon có lẽ thiếu khéo léo trong quan hệ đối với truyền thông; nhiệm kỳ Nixon có khuynh hướng đối đầu. Tôi không muốn đổ lỗi cho bất cứ cá nhân hay nhóm nào. Tôi chỉ muốn mô tả một tình huống xảy ra lúc đó mà tôi nghĩ mọi người đều có bổn phận không cho tái diễn. Nhưng nói chung, vai trò của truyền thông lúc đó tất nhiên là có hại nhiều.

Tuy nhiên, luôn luôn có những ngoại lệ. Tại tờ Washington Post, có một tay viết tên là Chalmers Roberts. Tôi không biết có ai ở đây nhớ ông này không. Ông ta đã thật sự nghiên cứu vấn đề Việt Nam. Thỉnh thoảng ông ta gọi tôi, không phải để săn tin, mà để lưu ý tôi về một lời phát biểu nào đó mà có thể có tầm quan trọng. Vì vậy, tôi không muốn dành lời chỉ trích vừa rồi cho tất cả những nhà báo đã gặp. Nhưng giới truyền thông tự họ không chịu nhìn nhận sự phức tạp của vấn đề mà nhà cầm quyền Nixon phải đối phó. Ở đây có sự hiện diện của con và cháu của Dean Rusk. Những người như Dean Rusk, McNamara, và Johnson, những người tôi biết, họ muốn kết thúc chiến tranh bằng mọi cách.

Cho nên khi nói đến những bình luận về ý định của những vị nói trên, và thái độ hiếu chiến …. Tôi xin các bạn Việt Nam có mặt ở đây tha thứ cho tôi. Một khi cuộc chiến đã bắt đầu thì nó chỉ có thể kết thúc bằng thắng hay thua. Và thắng ở đây có nghĩa là giữ được một cơ cấu chính trị nào đó. Nhưng không có cách nào chúng tôi có thể tìm một thế thương thuyết để giành đi những gì mà Bắc Việt Nam đã chiến đấu 50 năm để đoạt lấy. Nhưng giới truyền thông đã biến vấn đề thành chuyện trinh thám và xem chúng tôi có dò đoán được ý định của Bắc Việt hay không. Nếu chúng tôi đoán sai thi có thể là họ (Bắc Việt) bị hụt hẩn. Theo tôi đó không phải là cách ứng xử của Bắc Việt. Họ không sống còn một ngàn năm bên cạnh láng giềng Trung Quốc bằng cách ứng xử mềm dẻo. Tôi xin qua câu hỏi kế tiếp.

Hỏi: Tôi là Nick Ters, Viện Nghiên Cứu Radcliffe, Đại Học Harvard. Khi ông điều trần trước thượng viện vào năm 1973 để được bổ nhiệm, ông nói rằng Mỹ không dội bom người Cam-Pu-Chia, chỉ dội bom người Bắc Việt Nam và nước Cam-Pu-Chia. Nhưng trong quyển Chấm Dứt Chiến Tranh Việt Nam vào năm 2003, ông đã trích một con số thương vong là 50 ngàn thường dân Cam-Pu-Chia theo Bộ Quốc Phòng. Tôi muốn biết ông sẽ thay đổi lời điều trần của ông như thế nào ngày hôm nay.

Ngoại trưởng Kissinger: Tại sao tôi lại phải sửa đổi lời điều trần (tiếng cười)? Vì lý do gì?

Chúng tôi không dội bom bừa bãi người Cam-Pu-Chia trên đất nước họ. Tại sao chúng tôi lại muốn cản trở Khờ-Me Đỏ chiếm lấy Cam-Pu-Chia? Tôi không hiểu câu hỏi của ông, ngoại trừ ngụ ý là tôi đã không nói sự thật.

Khi ta nói về dội bom Cam-Pu-Chia, có ba chiến dịch dội bom khác nhau ở Cam-Pu-Chia. Có cái gọi là cuộc dội bom bí mật, bí mật đến nỗi nó là chủ đề của 7 bài viết trên báo Washington Post và báo New York Times, và 24 dân biểu cao cấp đã được phúc trình về vụ này. Những vùng dội bom là những vùng không dân cư, và tôi không nghĩ là đã có thương vong đáng kể. Một điều có thể tranh cãi là liệu dội bom như vậy có đẩy quân Bắc Việt vào sâu hơn trong lãnh thổ Cam-Pu-Chia hay không.

Chiến dịch dội bom thứ hai đi liền với cuộc hành quân của quân Mỹ và Việt Nam sang Cam-Pu-Chia. Tôi nghĩ là thương vong trong trường hợp này thì bằng như trung bình của những cuộc hành quân tại Việt Nam. Và tôi muốn nêu rõ rằng không có một hình ảnh nào về một cuộc dội bom “diệt chủng” đã được phổ biến, như vậy tôi cho rằng việc đó đã không xảy ra.

Và rồi có một giai đoạn thứ ba giữa tháng Hai năm 1973 và tháng Sáu năm 1973, khi chúng tôi tìm cách chận đứng Khờ-Me Đỏ và cản họ chiếm lấy Cam-Pu-Chia với e ngại sai lầm rằng Khờ-Me Đỏ là một công cụ của Hà-Nội và chúng tôi muốn dùng việc dội bom để thương thuyết thiết lập một chính quyền nhiều thành phần tại Cam-Pu-Chia. Quý vị có thể tìm xem những quy tắc giao chiến trong cuộc dội bom đó trong phần phụ đính của quyển sách của tôi về chấm dứt chiến tranh Việt Nam cũng như trong phụ đính của tập 3 của hồi ký của tôi. Và theo quy tắc giao chiến này thì không được dội bom trong vòng một dậm cách nơi cư ngụ thường dân và ném bom phải đươc chấp thuận bởi chính quyền Cam-Pu-Chia và trên hết là đại sứ của ta dựa theo lời khuyến cáo của người chỉ huy tại địa phương.

Những lỗi lầm có xảy ra không? Trong cuộc điều tra mà tôi đã trích dẫn đoạn về quy tắc giao chiến, có hai trường hợp phạm lỗi vì có thường dân sống trong vòng giới hạn. Nhưng đại khái đó là ba chiến dịch khác nhau. Và tất nhiên, những chiến dịch đó không nhắm vào người Cam-Pu-Chia; đó là một khía cạnh của phương thức chấm dứt chiến tranh Việt Nam.

Hỏi (hỏi bằng tiếng Việt, qua người thông dịch): Tôi sẽ cố gắng dịch chính xác. Câu hỏi thứ nhất, là về lời khẳng định của ông, rằng hòa bình trong tầm tay. Người hỏi muốn biết vì sao lại nói hòa bình trong tầm tay, và lý do gì đã có cuộc dội bom Giáng Sinh (1972)? Ông làm cách nào để dung hòa hai sự việc này? Câu hỏi thứ hai là về việc nhận định của ông về Lê Đức Thọ, đặc biệt là về điểm ông Lê Đức Thọ đã làm ông già đi, một điểm mà ông đã nêu trong phần đầu buổi nói chuyện.

Ngoại trưởng Kissinger: Về vấn đề gì?

Hỏi: Tại sao lại nói Lê Đức Thọ đã biến ông thành một ông già? Đã làm ông già đi? Đây là một điểm ông đã nêu lúc đầu.

Ngoại trưởng Kissinger: À, tôi có nói lúc mới vào rằng mặc dù bề ngoài tôi như thế này, nhưng thật sự tôi trẻ hơn nhiều (tiếng cười). Ông Lê Đức Thọ đã làm tôi già đi. Trước hết, tôi xin nói vài điều về việc “hòa bình trong tầm tay”. Sau đó tôi sẽ nói về Lê Đức Thọ.

Trước hết, về câu “hòa bình trong tầm tay”. Khi tôi đọc các sách viết về việc này, họ mô tả như tôi xuất hiện từ sau một tấm màn, hô lên câu “hòa bình trong tầm tay”, rồi rút lui và biến mất sau tấm màn (tiếng cười), để sau đó Richard Nixon có thể thắng cử, trong khi ông ta đang dẫn 20 điểm và đang lo ngại rằng tôi phát biểu linh tinh có thể làm mất lòng thành phần bảo thủ.

Ai muốn biết về câu “hòa bình trong tầm tay” nên đọc lại bài họp báo. Đó là một tài liệu 10 trang và trong đó tôi trình bày từng điều khoản một về thỏa thuận. Và với tất cả sự tôn trọng (với những nhà báo) các anh nhà báo tài giỏi có thể đọc qua tài liệu này và nêu lên những điểm hợp lý, hay phi lý, và họ có thể kết luận rằng tài liệu này phi lý. Ngoài ra, tôi cứ tưởng đó là một buổi phúc trình về tình hình. Tôi không ngờ nó sẽ được phát đi trực tiếp. Nhưng mục đích của tôi hôm đó là gì?

Trước đó, chúng tôi đã đạt được thỏa thuận với Bắc Việt tại Paris. Nhưng tình hình tại Sài Gòn cho thấy rằng chúng ta không thể đi đến thỏa thuận. Chúng tôi cứ tưởng rằng Sài Gòn phải chấp nhận. Nhưng phỏng đoán đó đã là một sai lầm. Chúng tôi tưởng ông Thiệu sẽ mừng rỡ là ông còn tiếp tục tồn tại, rằng chính quyền ông còn được duy trì; chúng tôi tưởng ông ta sẽ không mặc cả vì những điều khoản phụ thuộc. Nhưng trên thực tế, ông ta phải tiếp tục sống ở đó. Cho nên chúng tôi quyết định không áp đặt thỏa thuận với ông ta trước cuộc bầu cử. Trước hết chúng tôi phải thuyết phục Hà Nội rằng chúng tôi quyết tâm theo sát khuôn khổ của thỏa thuận và vì vậy chúng tôi đã khẳng định những điều khoản chính.

Chúng tôi còn phải thuyết phục Sài Gòn rằng chúng tôi sẵn sàng thực thi. Hình như vào cuối cuộc họp báo, tôi có nói “Chúng tôi chỉ thực thi thỏa thuận này khi nào mọi điều kiện thuận lợi, khi mọi việc sẵn sàng. Và một khi bắt đầu thực thi thì chúng tôi sẽ không ngừng”. Đó là mục đích của việc “hòa bình trong tầm tay”. Chúng tôi phải đối phó với một hoàn cảnh phức tạp. Chúng tôi muốn Sài Gòn tin rằng chúng tôi thật tâm. Và chúng tôi đã kêu gọi Hà-Nội chấp nhận một vài sửa đổi.

Bây giờ, nói về ông Lê Đức Thọ. Đây cũng như quý vị hỏi ý kiến người bệnh về người bác sĩ giải phẫu của mình. Tôi rất kính phục ông Lê Đức Thọ. Ông ta là đại diện một nước nhỏ, ông không nhiều kinh nghiệm quốc tế, mà đối diện với đại diện một nước siêu cường với tất cả bình tĩnh, với kỷ luật, và luôn theo đuổi chiến lược của ông. Tôi biết rõ mục đích của ông là làm kiệt sức chúng tôi. Một ví dụ điển hình là ông đọc lời mở đầu với đoạn hùng hồn kể lại lịch sử Việt Nam kéo dài 40 phút. Và ông cứ làm như vậy nhiều lần, nên tôi thuộc nằm lòng đoạn kể về lịch sử (tiếng cười). Và một trong những câu ông ta thường nói là: “Nếu các anh cố gắng nhiều, thì chúng tôi sẽ cố gắng nhiều”. Rồi một hôm ông ta nói “Nếu các anh cố gắng nhiều thì chúng tôi sẽ cố gắng.” Để thay đổi không khí, tôi lưu ý ông ta: “Thưa ông cố vấn đặc biệt, tôi nhận thấy là ông đã bỏ một tính từ trong lời ông vừa nói”. Và ông ta đáp: “Tôi vui mừng là ông đã chú ý điều đó”. Ông nói tiếp: “Bởi vì hôm qua chúng tôi cố gắng nhiều và các anh chỉ cố gắng thôi” (tiếng cười).

Ông ta là một người khéo léo. Ông theo đuổi một mục đích. Theo tôi, mục đích của ông là đòi hỏi chúng tôi thực hiện một điều căn bản là lật đổ chính quyền Sài Gòn, nếu không họ sẽ mở một cuộc tấn công. Chúng tôi không chấp nhận lật đổ chính quyền Sài Gòn. Cho nên họ đã mở cuộc tấn công. Và khi cuộc tấn công không thành công, họ trở lại bàn hội nghị. Tôi rất vừa lòng khi đọc được trong một quyển sách phát hành ở Hà-Nội rằng ông Lê Đức Thọ có ba chọn lựa để chấp nhận thỏa thuận và cuối cùng ông đã chấp nhận chọn lựa đi xa nhất theo quan điểm của tôi. Nhưng ông đã mất ba tháng trời trước khi quay lại bàn hội nghị.

Như vậy, tóm lại, tôi rất quý trọng ông ta vì ông là một nhà chiến lược khôn khéo và có quyết tâm, và ông luôn có lối cư xử lịch sự và khéo léo. Nhưng có lẽ “nhan sắc” tôi còn tươi đẹp hơn nếu tôi không phải đối phó với ông ấy (tiếng cười).

Đại Sứ Brynn: Tôi xin can thiệp vào đây. Xin mời ông Rusk nêu câu hỏi của ông.

Hỏi: Thưa Tiến sĩ Kissinger, tôi tên là Rich Rusk. Tôi là con trai thứ hai của Dean Rusk. Xin cám ơn ông đã có những lời trân trọng về cha tôi. Tôi cũng rất quý trọng công việc ông đã làm trong những năm tại chức, và tất cả những gì ông cố gắng thực hiện. Tôi không ủng hộ những người đã chỉ trích chính sách đối với Việt Nam. Thành thật mà nói, vào lúc tất cả những sự việc này đang xảy ra, tôi rất thù ghét những người chống chiến tranh.

Nhưng thưa Tiến sĩ Kissinger, khi ông nói đa phần những gì không thành công ở Việt Nam là vì chính chúng ta tự làm hư việc, thì theo tôi, những gì hư hỏng là do quyết định của ba chính phủ và một nhóm nhỏ cố vấn trong đó có cha tôi. Và ba chính phủ này đã gởi quân Mỹ sang để chống lại một nhân vật và một phong trào đã đuổi người Nhật ra khỏi Đông Dương vào lúc Thế Chiến Thứ Hai, và đã đuổi người Pháp đi sau đó, một nhân vật đã kết tụ được tinh thần quốc gia của người Việt Nam. Cha tôi không bao giờ phủ nhận phần trách nhiệm của ông ta trong những quyết định đó. Tôi cũng không cho rằng ông đã phủ nhận phần trách nhiệm của ông. Tất nhiên, cha tôi đã áp dụng sai một vài bài học ông đã học từ Thế Chiến Thứ Hai.

Câu hỏi của tôi thưa ông, vì tôi ý thức là phải hỏi câu hỏi chứ không chỉ phát biểu, câu hỏi của tôi là suy nghĩ của tôi có gì sai lệch, ngay cả cho đến ngày hôm nay? Hoặc hỏi cách khác, suy nghĩ của ông đã bị sai lệch chỗ nào?

Ngoại trưởng Kissinger: Chúng ta tự làm hư việc, và trong đó có những nhận định sai lầm. Chúng ta đã sai lầm về tương quan giữa chiến lược Liên Xô và Trung Quốc, giữa chiến lược Trung Quốc và Bắc Việt, khiến chúng ta can dự vào cuộc chiến trong giai đoạn đầu. Có những nhận định theo tôi dựa trên kinh nghiệm từ chính sách ngăn chận tại Châu Âu. Đó là những nhận định có thể hiểu được, nhưng trên một số bình diện có sai lầm. Nhưng theo thiển ý, nói như vậy không có nghĩa là phải chấp nhận sự tranh cãi ác liệt và đầy ác ý đã diễn ra sau đó.

Chúng tôi không đưa quân sang bên đó. Chúng tôi đã rút quân về. Khi chúng tôi nhậm chức, có 540 ngàn quân bên đó. Chúng tôi rút quân với trung bình 150 ngàn một năm. Tôi nghĩ những người bạn Việt Nam ở đây cũng hiểu vấn đề rút quân. Có 800 ngàn quân Bắc Việt hiện diện trong nước. Và 1 triệu quân nhân Nam Việt Nam có thể trở thành mối đe dọa cho chúng ta nếu họ biết chúng ta bỏ rơi họ. Rồi thì ta có 540 ngàn quân Mỹ trong tình trạng đó. Cho nên việc rút quân là một vấn đề phức tạp, và chúng ta đã vấp phải sai lầm trong tiến trình đó. Tôi không muốn lên tiếng ở đây như một phát ngôn viên của chính quyền Nixon. Tôi muốn trình bày vấn đề trong tư cách một người đã suốt đời đóng góp cho chính sách đối ngoại Mỹ, và tin tưởng rằng đất nước này có vai trò quan trọng trong nền hòa bình thế giới. Khi một tiến trình đã bắt đầu thì chúng ta không đi lui được. Như cha của anh từng nói, “Đây không phải như một chương trình truyền hình có thể tắt đi được”.

Ông Johnson đã từng nói “Tôi không thể thắng và không thể rút đi”. Lời nói đó diễn tả thử thách của nước Mỹ lúc đó. Tôi không biết là chúng tôi đã vấp phải lỗi lầm nào to lớn, nhưng việc rút quân ra ngay lập tức không thể thực hiện được. Ngay những thành phần cực đoan nhất trong đảng Dân Chủ cũng không đề nghị điều này. Một khi chúng ta đã quyết định rút đi từng bước, liệu việc rút quân đó có nên thực hiện nhanh hơn không? Tôi không biết. Cách duy nhất để làm việc đó nhanh hơn là lật đổ chính quyền (miền Nam) và chúng tôi không thể chấp nhận việc đó. Như vậy có là sai lầm hay không, tôi nghĩ là không.

Tôi thông cảm với những người lúc đầu đã áp dụng một mô hình sai cho Đông Nam Á vì họ không hiểu rằng Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam là những thực thể khác nhau, và rằng một khi Việt Nam đã chiến thắng thì họ sẽ không đe dọa chúng ta mà ngược lại có thể là mối đe dọa cho một số quốc gia khác. Tất nhiên, trong guồng máy chính quyền thì luôn có những lỗi lầm. Nhưng điều tôi muốn nêu là đối với một xã hội như xã hội Mỹ, liệu chúng ta có thể tranh luận một cách nghiêm túc về những sai lầm đó mà không nhất thiết phải gây ra một cuộc nội chiến.

Đại Sứ Brynn: Tôi xin can thiệp vào nơi đây. Xin cám ơn Tiến sĩ Kissinger đã trình bày vấn đề một cách mạch lạc và sâu sắc, và đã tạo một tiêu chuẩn cao cho buổi hội thảo hôm nay (tiếng vỗ tay). Tôi được nhắc nhở là nêu tựa quyển sách nói đến lúc đầu, đó là Một Thế Giới Được Phục Hồi. Tôi có ngỏ lời mời thủ tướng Metternich nhưng ông ta không được khỏe hôm nay (tiếng cười).

Luật sư tư vấn miễn phí

Gọi ngay
0902818158- 0906834543
0906834543
0902818158

Tin pháp luật

CÁC ĐỐI TÁC

  • Nhà Đất Phúc An Khang
  • The Diplomat
  • The NewYork Review of Book
  • CogitAsia
  • Reuters
  • Viet Studies
  • The NewYork Times
  • TIME
  • Bloomberg Bussiness