TIN TỨC

fanpage

Thống kê truy cập

  • Online: 12
  • Hôm nay: 43
  • Tháng: 7882
  • Tổng truy cập: 5153146
Chi tiết bài viết

Một số vấn đề đặt ra trong xử lý mối quan hệ giữa đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế

Image result for Một số vấn đề đặt ra trong xử lý mối quan hệ giữa đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế

TCCS - Sau gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Từ một quốc gia bị kìm hãm trong cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, thiếu thốn đủ thứ, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, mức tăng trưởng GDP hằng năm luôn đạt loại khá. Bên cạnh thành tựu kinh tế, đất nước còn luôn giữ được ổn định chính trị, dân chủ ngày càng được phát huy, vị thế chính trị trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được, nhất là về kinh tế, có thể còn cao hơn nữa nếu chúng ta xử lý tốt hơn mối quan hệ giữa đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế.

Những hạn chế, khiếm khuyết trong đổi mới kinh tế và trong xử lý mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị

Có thể thấy, hạn chế, khiếm khuyết, trước hết, trong đổi mới kinh tế là việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chưa hoàn chỉnh. 

Về mặt lý luận, sau nhiều tranh luận, vấn đề sở hữu nhà nước và đi cùng với nó là thể chế quản lý còn nhiều lúng túng. Về mặt thực tiễn, doanh nghiệp nhà nước vẫn là không gian ẩn chứa không ít tiêu cực. Chúng ta đã xác định, Nhà nước là chủ sở hữu một số lực lượng sản xuất quan trọng nhất, như tài nguyên, đất đai, các doanh nghiệp nhà nước. Nhưng có một nghịch lý là, nhiều tập đoàn kinh tế quan trọng, do Nhà nước nắm giữ, thường có những biểu hiện tiêu cực, như độc quyền, kém hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh, trong khi việc sử dụng tài nguyên, đất đai lại rất lãng phí, bị lợi dụng vì “lợi ích nhóm” và cá nhân. 

Nguyên nhân của hạn chế, yếu kém nói trên là do thể chế pháp lý đối với doanh nghiệp nhà nước còn có nhiều vướng mắc, chưa rạch ròi. Bên cạnh đó, các thể chế có vai trò quan trọng trong quản lý, nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế, như ngân hàng, tài chính, thị trường chứng khoán, cùng các công cụ điều tiết, như tiền tệ, giá, lãi suất, tỷ giá, thuế,... hoạt động kém hiệu quả, có xu hướng chạy theo lợi nhuận đơn thuần, trái với kỳ vọng của Nhà nước. Cùng với đó là chậm đổi mới thể chế quản lý đối với một số lĩnh vực kinh doanh quan trọng, như xi-măng, sắt thép và đặc biệt là xăng dầu, điện. 

Thứ hai, sự phát triển kinh tế còn thiếu ổn định và bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước. 

Mức độ cải thiện kinh tế của các tầng lớp dân cư, các vùng, miền, các ngành, nghề chưa đồng đều, chưa công bằng, dẫn đến nguy cơ xung đột lợi ích cao (rõ nhất là giữa người nông dân thuộc diện có đất thu hồi và giới kinh doanh bất động sản; giữa người sản xuất nông, lâm, thủy sản và các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu;...).

Trong vòng 10 năm qua, nền kinh tế không đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, ổn định như mong muốn và tiềm năng cho phép. Tốc độ tăng trưởng cao nhất đạt được trong khoảng thời gian từ năm 1992 đến năm 1997 (trung bình là 8,5%/năm, cao nhất là 9,2% vào năm 1995) đã suy giảm trong các năm tiếp theo và đến nay, sau nhiều cố gắng chỉ đạt khoảng 5,4%/năm. Nền kinh tế sau khi hội nhập quốc tế đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu trong các năm 2008 - 2011, đến nay chưa hoàn toàn hồi phục. Sự sụt giảm nhu cầu trao đổi của các thị trường Mỹ, châu Âu thời kỳ khủng hoảng cũng kéo theo sự sụt giảm trong sản xuất, xuất khẩu của các ngành kinh tế trong nước. Trong khoảng 15 năm qua, trên lĩnh vực sản xuất, Việt Nam chưa có được một chiến lược sản phẩm nào đạt thương hiệu toàn cầu, từ công nghiệp tàu thủy, công nghiệp ô-tô, đến công nghệ thông tin; từ sản xuất lúa gạo, đến thủy sản, trái cây,... Nền kinh tế chứa đựng sự thiếu ổn định, chắc chắn, nhiều yếu tố ảo, rủi ro cao. Ví dụ, thị trường chứng khoán sau bùng nổ ảo, chỉ số VN-Index đạt tới 1.000 điểm năm 2007 đã nhanh chóng rơi xuống còn chưa đến 500 điểm trong mấy năm gần đây. Thị trường bất động sản bùng nổ những năm 2009 - 2010 nay rơi vào khủng hoảng thừa với tài sản ứ đọng tới 120.000 tỷ đồng cùng hàng nghìn căn hộ, trong khi người có nhu cầu thực sự về nhà ở lại không thể tiếp cận được. 

Trong những năm qua, mặc dù tiếp tục nhận được các nguồn vốn FDI và nguồn ODA khá lớn, song sức bật, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam vẫn thấp. Nhiều chỉ số kinh tế vĩ mô, như hiệu quả đầu tư, khả năng cạnh tranh, môi trường kinh doanh,... vẫn không tăng trưởng tương xứng. 

Tình hình đó có nguyên nhân gì? Do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu hay do thể chế kinh tế thị trường ở nước ta chưa hoàn chỉnh? 

Về mặt khách quan, không thể phủ nhận sự tác động của suy thoái kinh tế thế giới tới kinh tế trong nước, song đó chỉ là nguyên nhân thứ yếu, bởi lẽ, có những nền kinh tế hội nhập quốc tế sâu hơn nhưng không bị ảnh hưởng nặng nề như Việt Nam, và nếu có bị ảnh hưởng thì thời gian khôi phục nhanh hơn và vẫn có nhịp độ tăng trưởng cao, chẳng hạn như nền kinh tế Trung Quốc. Về mặt chủ quan, không thể phủ nhận thể chế kinh tế thị trường ở nước ta chưa thật sự hoàn chỉnh, song đó cũng chỉ là nguyên nhân thứ yếu, bởi lẽ trên thế giới có những nước mà thể chế kinh tế thị trường ở đó hoàn chỉnh hơn, như Tây Ban Nha, Hy Lạp, Ai Len, Bồ Đào Nha,... trong các năm 2010 - 2012 vẫn rơi vào khủng hoảng nợ công trầm trọng. 

Nguyên nhân chủ quan của những hạn chế, yếu kém trong phát triển kinh tế trước hết là do bản thân giới doanh nhân. Đó là tầm nhìn, thói quen kinh doanh ngắn hạn; sự thiếu đoàn kết, làm ăn nhỏ lẻ; kém nỗ lực vươn lên; thiếu kinh nghiệm và tri thức kinh doanh hiện đại;..., tóm lại là văn hóa kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, mỗi doanh nhân thuộc các thành phần kinh tế còn rất hạn chế, là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới phát triển kinh tế một cách bền vững. Cộng hưởng với điều này là văn hóa tiêu dùng của người dân, trong đó có những thói quen, phong trào tiêu dùng có tính chất “đám đông”, nhiều khi làm cho quan hệ cung - cầu trên thị trường trở nên khó đoán định, gây khó khăn cho sản xuất, kinh doanh. 

Nguyên nhân tiếp theo là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa hoàn chỉnh, chưa đủ khả năng điều tiết bằng các công cụ kinh tế đối với sản xuất, kinh doanh, dẫn đến môi trường kinh doanh chưa lành mạnh, vừa có hiện tượng cạnh tranh thiếu công bằng, vừa có hiện tượng độc quyền; khả năng rủi ro, thiếu an toàn cho người kinh doanh cao. Chẳng hạn, pháp luật về bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ thương hiệu cho người sản xuất, kinh doanh chưa được hoàn chỉnh, và điều quan trọng hơn, việc thực thi pháp luật này ít có hiệu lực, khiến cho người có sáng chế, người sản xuất ra sản phẩm có thương hiệu tốt bị thua thiệt, giảm sút động lực kinh doanh. Những vụ, việc từng xảy ra với một số thương hiệu, như nước mắm Phú Quốc, cà phê Trung Nguyên và gần đây là cà phê Buôn Ma Thuột,... là những ví dụ điển hình. Tình trạng này xảy ra trong nhiều ngành, đặc biệt là ngành xuất bản sách và ấn phẩm văn hóa, với rất nhiều vụ xâm phạm bản quyền tác giả. 

Tuy nhiên, tất cả những nguyên nhân nói trên chỉ là những nguyên nhân thứ yếu. Có thể khẳng định, nguyên nhân chính dẫn đến sự hạn chế, khiếm khuyết trong đổi mới kinh tế là do chưa xử lý tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Nói cách khác, những hạn chế, khiếm khuyết về thể chế kinh tế có thể được khắc phục nếu từ phía chính trị có chính sách, pháp luật đúng và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đó một cách quyết liệt, hiệu quả. Việc tạo ra các thể chế của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó, trước hết là những chính sách, chiến lược đúng cho phát triển kinh tế, tự bản thân các doanh nghiệp không thể làm được, mà phải do Nhà nước, nghĩa là từ phía chính trị. Có thể nêu một số yếu kém về chính trị ảnh hưởng tới phát triển kinh tế như sau:

Một là, Nhà nước chưa thực hiện tốt vai trò, chức năng đối với phát triển kinh tế thị trường theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 

Mặc dù đã có đổi mới tư duy về vai trò, chức năng của Nhà nước, song Nhà nước vẫn chưa thực hiện tốt vai trò, chức năng mà kinh tế thị trường yêu cầu. Cụ thể, Nhà nước chưa làm tốt việc xây dựng và thực thi pháp luật để tạo điều kiện cho kinh tế thị trường phát triển. Đặc biệt, Nhà nước chưa làm tốt công tác xây dựng quy hoạch, chiến lược và việc quản lý sự phát triển theo quy hoạch, chiến lược đó. Trên nhiều lĩnh vực, Nhà nước có xây dựng quy hoạch, chiến lược, song tính khoa học và thực tiễn của chúng không cao. Nhìn vào các lĩnh vực kinh tế, hầu như không có một chiến lược nào được thực hiện tốt đẹp và trọn vẹn, từ công nghiệp, nông nghiệp đến thương mại, dịch vụ, du lịch,… Một ví dụ điển hình: là nước hàng đầu về xuất khẩu gạo, song cho đến nay Việt Nam vẫn bị động với thị trường gạo thế giới, luôn ở thế yếu so với các nước khác; người nông dân Việt Nam luôn chịu nhiều thua thiệt, rủi ro. Việt Nam không tạo được hệ thống liên kết vững vàng trong sản xuất, xuất khẩu gạo, lại càng không chiếm lĩnh được vị thế làm chủ, hoặc ít nhất là tác động mạnh vào thị trường, điều tiết giá gạo theo chủ ý. 

Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu bắt đầu diễn ra vào năm 2008, gây nên suy thoái ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam, song nó cũng là thước đo đánh giá sự vững vàng hay không của các công cụ quản lý kinh tế của Nhà nước Việt Nam và độ lành mạnh của nền kinh tế Việt Nam. Trong nhiều năm và cho đến nay Nhà nước vẫn can thiệp mang tính hành chính vào nền kinh tế, nhất là can thiệp vào việc kinh doanh các loại hàng hóa đặc biệt, như xăng dầu, điện, sắt thép, than; can thiệp vào tỷ giá ngoại tệ và đồng Việt Nam, tỷ lệ lãi suất ngân hàng và gần đây là thị trường vàng. Năm 2013, sự điều hành của Chính phủ thông qua công cụ tài chính và ngân hàng đã giúp cho lạm phát được kìm hãm ở mức 6,8%/năm, trong khi GDP đạt 5,4%/năm, được coi là một thắng lợi trong quản lý nền kinh tế. Sự can thiệp như vậy đã góp phần bình ổn giá cả hàng hóa trong một thời điểm nhất định, song về dài hạn, sự can thiệp bằng những quy định về giá sàn, giá trần, bằng quota xuất - nhập khẩu đối với một số mặt hàng trong thời gian dài sẽ làm biến dạng bộ mặt thật của nền kinh tế, khiến cho quy luật giá trị không phát huy được chức năng điều tiết sản xuất của nền kinh tế. 

Những yếu kém, khiếm khuyết nói trên là do năng lực của Nhà nước còn hạn chế, nhưng sâu xa hơn là do tư duy chính trị còn có điểm lúng túng, chẳng hạn như trong việc xác định những gì Nhà nước cần sở hữu hoặc tác động, những gì có thể để cho xã hội điều chỉnh. Sự lúng túng và chậm chạp trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là hậu quả của tư duy chính trị này. Cho đến gần đây chúng ta mới thừa nhận sự hoạt động kém hiệu quả, gây thất thoát, lãng phí lớn cho đất nước của nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước.

Hai là, tình trạng quan liêu, lãng phí, tham nhũng trong bộ máy nhà nước còn nặng, ảnh hưởng tới phát triển kinh tế. 

Có thể khẳng định, đây là nhân tố ảnh hưởng rất tiêu cực tới hoạt động kinh tế nói chung và việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng. 

Tình trạng quan liêu dẫn đến nhiều quy định, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế không sát thực tiễn, không mang tính khả thi; nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội thiếu sự điều chỉnh và quản lý bằng pháp luật, đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý phát triển và trật tự đô thị. 

Tình trạng lãng phí làm mất đi những nguồn lực to lớn mà hoạt động của tất cả các thành phần kinh tế tạo ra cho đất nước. Sự đầu tư mang tính phong trào của các địa phương, từ sản xuất mía đường, xi-măng, đến xây dựng cảng biển, sân bay, khu đô thị,... không có quy hoạch, hoặc bất chấp quy hoạch là hậu quả trực tiếp từ yếu tố chính trị. Chỉ riêng tồn đọng trong đầu tư bất động sản đã lên tới hàng trăm nghìn tỷ đồng, cùng hàng nghìn héc-ta đất sử dụng không hiệu quả. Nhiều tập đoàn kinh tế nhà nước được sử dụng khối tài sản khổng lồ, nhưng không được quản lý, kiểm soát chặt chẽ, nhất là trong khâu đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dẫn đến thua lỗ, phá sản, gây lãng phí lớn tài sản của đất nước. Bên cạnh những lãng phí trong đầu tư kinh tế, lãng phí trong đầu tư cho hoạt động phi kinh tế cũng không giảm. Những hô hào tiết kiệm trong tổ chức lễ hội, kỷ niệm, đón nhận huân chương,... vẫn không có tác dụng cũng bởi chưa khắc phục được tư duy chính trị phô trương, hình thức, chạy theo thành tích. 

Tình trạng tham nhũng không chỉ làm thất thoát một số tài sản công nhất định (theo tính toán của tổ chức quốc tế, sự thất thoát này lên tới hàng tỷ USD mỗi năm), mà nguy hiểm hơn, còn hủy hoại bộ máy công quyền, làm mất đi những cơ hội đầu tư phát triển, suy giảm động lực phát triển và sự nghiêm minh của Nhà nước pháp quyền trong quản lý kinh tế. Tham nhũng đã tạo điều kiện để các doanh nghiệp lách luật, làm sai pháp luật kinh doanh. Không những thế, sự bắt tay mờ ám giữa một số doanh nghiệp với một bộ phận cán bộ quản lý nhà nước trong xây dựng chính sách, ban hành các quy định có lợi cho một số doanh nghiệp đã làm cho việc thực hiện chiến lược, kế hoạch, quy hoạch,... không được nghiêm túc, thậm chí méo mó. 

Những điều nói trên làm cho môi trường kinh doanh của Việt Nam thiếu ổn định, hay thay đổi bất thường. Theo đánh giá của các tổ chức xếp hạng quốc tế về môi trường kinh doanh các quốc gia, thứ hạng về môi trường kinh doanh của Việt Nam trong 5 năm gần đây không những không được cải thiện mà còn suy giảm. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến khả năng cạnh tranh quốc gia thấp. 

Bài toán chống quan liêu, lãng phí, tham nhũng (kể cả tham nhũng qua chính sách) vẫn chưa có lời giải thật sự hữu hiệu. Những biện pháp mạnh mẽ, cần thiết nhằm khắc phục các căn bệnh này vẫn chưa được thực hiện. 

Ba là, thể chế dân chủ chưa phát triển đúng mức cần thiết.

Tại sao những hạn chế, yếu kém nói trên vẫn kéo dài? Có lẽ, một trong những nguyên nhân chính là do sự kiểm soát của xã hội đối với quyền lực nhà nước vẫn còn hạn chế, hay nói cách khác, thể chế dân chủ chưa phát triển đến mức có thể kiểm soát được mọi hoạt động của Nhà nước trong quản lý, điều hành nền kinh tế. Mặc dù đã tích cực phát huy dân chủ, công khai hóa, phòng, chống tham nhũng, nhưng trên thực tế, tính công khai trong hoạt động cũng như trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước, nhất là các cơ quan hành pháp, vẫn còn mờ nhạt; các cơ quan nhà nước ở các cấp không đủ sức mạnh để kiểm soát lẫn nhau; các cơ quan dân cử, cao nhất là Quốc hội, nhiều khi không kiểm soát được đúng mức đối với hoạt động của các cơ quan hành pháp; sự phản biện và áp lực từ bên ngoài đối với Nhà nước (chẳng hạn, qua báo chí, truyền thông, các tổ chức chính trị - xã hội) có tác dụng chưa cao. 

Thể chế dân chủ trong hoạch định chính sách phát triển và quản lý kinh tế của các cơ quan hành pháp từ Trung ương đến địa phương còn hạn chế, nhất là đối với việc ban hành các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế và các văn bản quản lý kinh tế. Có không ít văn bản quản lý kinh tế vừa mới ban hành đã bị dư luận phản đối, phải thu hồi. 

Bốn là, phương thức cầm quyền của Đảng còn lúng túng. 

Trong mô hình chính trị có duy nhất một đảng cộng sản cầm quyền, sự kiểm soát của đảng đối với nhà nước, nhất là về mặt nhân sự, phải rất mạnh mẽ; sự thanh lọc của đảng đối với các cá nhân yếu kém phải rất nhanh chóng. Trên thực tế, các đợt chỉnh đốn, “tự phê bình và phê bình” trong Đảng ta thời gian gần đây chưa đem lại hiệu quả như mong muốn, trong khi niềm tin của nhân dân đối với Đảng có sự suy giảm đáng lo ngại. Vấn đề sâu xa ở đây là việc xử lý mối quan hệ giữa tập trung và dân chủ trong Đảng còn lúng túng, nhất là trong công tác cán bộ. Điều quan trọng nhất đối với sự cầm quyền của Đảng là việc lựa chọn con người cho bộ máy nhà nước, nhưng lựa chọn theo nguyên tắc nào, cơ chế nào - công khai hay kín, cá nhân chịu trách nhiệm hay tập thể chịu trách nhiệm,... là những điều chưa có câu trả lời dứt khoát. Có thể nói, phương thức cầm quyền của Đảng còn lúng túng là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến những yếu kém về chính trị nói trên, hay nói cách khác, là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến những hạn chế, khiếm khuyết trong đổi mới kinh tế.

Yêu cầu và giải pháp đổi mới chính trị nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới kinh tế

Từ những thành công và hạn chế của đổi mới chính trị và kinh tế sau gần 30 năm qua, có thể thấy, vai trò của chính trị đối với phát triển kinh tế là cực kỳ to lớn, đồng thời, đổi mới kinh tế có vai trò quan trọng đối với đổi mới chính trị.

Chính trị và kinh tế có sự độc lập nhất định, song không thoát ly hoàn toàn với nhau. Ngược lại, tuy có ảnh hưởng lẫn nhau, song giữa chính trị và kinh tế vẫn có ranh giới nhất định. Chính trị với nghĩa là hệ thống chính trị thì không thể lấn sân kinh tế, không can thiệp tới mức làm sai lệch “cơ chế thị trường”, làm sai lệch sự điều chỉnh các quy luật của thị trường đối với hoạt động của các chủ thể kinh tế. Song, với nghĩa là chính sách và tổ chức thực hiện chính sách,chính trị có thể thúc đẩy và tạo cơ hội cho kinh tế phát triển. Ngược lại, kinh tế phát triển sẽ tạo nguồn lực và môi trường tâm lý thuận lợi cho các hoạt động chính trị và cũng đặt ra yêu cầu đổi mới chính trị. Song, xét về bản chất và nhìn nhận một cách khách quan, kinh tế cần có ranh giới nhất định và ranh giới bắt buộc trong quan hệ với chính trị. Bởi vậy, giới doanh nghiệp không được can thiệp tiêu cực, “can thiệp xấu” vào hệ thống chính trị bằng những hành vi, quan hệ mờ ám với giới chính trị, làm sai lệch chính sách, tạo nên những bất công, bất bình đẳng trong kinh doanh. 

Để thúc đẩy công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, nhất là đối với đổi mới kinh tế, yêu cầu đặt ra đối với đổi mới chính trị là: Xây dựng nền dân chủ đi đôi với thiết lập một cách vững chắc Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho mọi hoạt động của xã hội đều được pháp luật điều chỉnh một cách công bằng, bình đẳng. Hình thành hệ thống quản lý nhà nước về kinh tế có hiệu lực, hiệu quả, có trách nhiệm, có khả năng đề xuất được các mục tiêu, các chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội khả thi trong mỗi giai đoạn phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị phải động viên được các lực lượng xã hội dành tâm huyết, sức lực vào phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước hội nhập quốc tế thành công; tạo được sự đồng tình ủng hộ của cộng đồng quốc tế và môi trường quốc tế thuận lợi cho phát triển kinh tế của đất nước.

Để đáp ứng yêu cầu nói trên, trong những năm tới cần thực hiện tốt một số giải pháp sau: 

1- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước là tất yếu khách quan, là nguyên tắc đã được hiến định, nhưng phải bảo đảm cho các cơ quan nhà nước hoạt động theo đúng nguyên tắc pháp quyền, có sự phân công quyền hạn và trách nhiệm rõ ràng, đặc biệt là quyền hạn và trách nhiệm của các chức danh quan trọng nhất, như Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ. Nhà nước phải trong sạch, minh bạch, chịu sự giám sát và phán xét của nhân dân; Chính phủ phải năng động, hoạt động có hiệu quả. 

Điều quan trọng nhất là Nhà nước phải luôn hoàn thiện chính sách, pháp luật, xây dựng và tổ chức thực hiện tốt các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế một cách khoa học, có tính khả thi. 

2- Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách là đảng cầm quyền, đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, có đủ bản lĩnh, trí tuệ, trong sạch, có đủ năng lực đề ra đường lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn cho đất nước; có đủ uy tín lãnh đạo, dẫn dắt các giai cấp, tầng lớp nhân dân, các lực lượng xã hội tập trung sức lực phát triển đất nước. 

Điều khác biệt giữa Việt Nam và nhiều nước trên thế giới là nhân dân Việt Nam tin tưởng và trung thành với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Song, Đảng không nên vì sự tin tưởng và trung thành đó, mà lơi lỏng việc thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, nghiêm túc đặt hoạt động của mình trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, gắn bó với nhân dân, đặc biệt là với giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức. 

3- Xây dựng Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân thật sự đại diện cho khối đại đoàn kết toàn dân, cho các giai cấp, tầng lớp nhân dân giám sát các hoạt động và phản biện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, nhằm thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; động viên, tổ chức nhân dân thực hiện thành công các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội./.

Vũ Hoàng CôngPGS, TS, Tổng Biên tập Tạp chí Lý luận chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

 

Tăng cường quản lý đất đai để thúc đẩy phát triển thị trường bất động sản Việt Nam hiện nay

TCCSĐT - Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quản lý đất đai là một trong những trọng tâm đổi mới và phát triển, do vậy, cần tăng cường hơn nữa các biện pháp sao cho quản lý hiệu quả nguồn tài nguyên vô giá này.

Quản lý đất đai trong phát triển thị trường bất động sản hiện nay 

Thị trường bất động sản Việt Nam từ năm 1987 (năm có Luật Đất đai đầu tiên) đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm. Tựu trung, có 3 chu kỳ gắn liền với 3 lần ra đời của Luật Đất đai (năm 1987, năm 1993, năm 2003). Trong đó, ở giai đoạn sơ khai 1987 - 1993, có thể nói tất cả các diễn biến của thị trường đất đai, bất động sản đều là tự phát. Giai đoạn 1993 - 2003 là giai đoạn bùng phát và suy giảm gắn liền với các điều chỉnh của Luật Đất đai (tăng trưởng đến năm 1996 và suy giảm đến khoảng đầu năm 2003). Giai đoạn 2003 - 2013 cũng gắn liền với sự ra đời và sửa đổi, bổ sung của Luật Đất đai năm 2003 nhưng có thêm sự hiện diện của Luật Xây dựng, Luật Nhà ở và Luật Kinh doanh bất động sản. Thị trường bất động sản giai đoạn này bùng phát đến năm 2007 và suy giảm (có những đợt tăng lại cục bộ trong một giai đoạn ngắn). 

Hiện nay, thị trường bất động sản đang có những biểu hiện phục hồi nhưng chưa rõ rệt. Cùng với quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước, một lượng vốn lớn đang được các doanh nghiệp thoái khỏi thị trường bất động sản. Vì vậy, để thị trường bất động sản có thể phục hồi, cần có một luồng vốn thay thế. Bên cạnh các luồng vốn truyền thống như vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài (FDI, FII), kiều hối, tiền trong dân, tiền trong doanh nghiệp mới tham gia thị trường, tiền từ hệ thống ngân hàng, các luồng tiền phái sinh…, có một luồng tiền tiềm ẩn nằm nội sinh ngay trong nguồn lực đất đai, rất cần có những thể chế kinh tế cũng như cách thức quản lý phù hợp để kích hoạt được nguồn vốn nội sinh từ đất đai.

Chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế thị trường được khẳng định. Những vấn đề có liên quan đến tổng kết Nghị quyết 21 (Nghị quyết Trung ương 6 khóa X) về tiếp tục đổi mới thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hiện đang được tổng kết trong các văn kiện của Đảng trình Đại hội XII. Nội dung về xây dựng thể chế để tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại hình thị trường là một nội dung rất quan trọng. Thị trường bất động sản (với thị trường bộ phận là thị trường quyền sử dụng đất và công tác quản lý đất đai) là một trong những nội dung quan trọng của việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Luật Đất đai năm 2013 đã ban hành với nhiều sửa đổi, bổ sung liên quan đến quản lý đất đai và phát triển thị trường bất động sản. Luật Đất đai năm 2013 thể hiện đầy đủ quan điểm của Hiến pháp năm 2013, đồng thời, với sự khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước làm đại diện và thống nhất quản lý, công cuộc quản lý đất đai tập trung chủ yếu vào việc quản lý quyền sử dụng đất. 

Có thể thấy, cùng với sự ra đời của Hiến pháp năm 2013, Luật Đất đai năm 2013, Luật Xây dựng, Luật Nhà ở và Luật Kinh doanh bất động sản đang sửa đổi, một số yếu tố nội sinh sẽ được huy động cho thị trường bất động sản. Cùng với đó, công tác quản lý đất đai đi vào ổn định, hợp lý sẽ tạo ra một yếu tố hỗ trợ nguồn lực cho thị trường bất động sản.

Những vấn đề đặt ra và kiến nghị, giải pháp đối với việc tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước về đất đai để phát triển thị trường bất động sản

Quy trình hóa công tác quản lý đất đai

Công tác quản lý đất đai cần phải được quy trình hóa một cách tường minh. Đây là một yếu tố mang tính kinh tế của các hoạt động dịch vụ công. Đất đai, nếu không được sử dụng sẽ không sản sinh lợi ích. Đất đai chỉ phát huy được giá trị sử dụng khi có chủ sử dụng. Để không phát sinh những tranh chấp đất đai trong quá trình sử dụng, đất đai phải được quản lý bởi Nhà nước và các bên liên quan. Vì vậy, quản lý đất đai phải được quy trình hóa, công khai hóa.

Để quy trình hóa công tác quản lý đất đai phục vụ phát triển thị trường bất động sản, cần có những nghiên cứu khái quát hóa và công nghệ hóa quy trình, từ đó công khai trong thực tiễn cuộc sống và vận hành trong thực tiễn, chỉ khi đó, giá trị tiềm tàng của đất đai mới được phát huy và huy động. Đặc biệt, các bước trong từng giai đoạn của quy trình có thể là rất khác nhau nhưng phải được nghiên cứu, hình thành và kiểm nghiệm trong thực tiễn để khi đưa vào vận hành phải bảo đảm tính khả thi và tính chế tài.

Nhất thể hóa hệ thống quy hoạch, trong đó có quy hoạch sử dụng đất

Quy hoạch đất đai là một trong những nội dung căn bản của công tác quản lý đất đai. Để sử dụng tiết kiệm và hiệu quả nguồn lực đất đai, công tác quy hoạch đóng một vai trò quan trọng. Trong quy trình quản lý đất đai, quy hoạch là một trong những khâu đầu tiên. Trong quá trình chuyển đất đai từ nguồn tài nguyên sang nguồn vốn, quy hoạch đóng vai trò chuyển dịch đất đai từ nguồn tài nguyên thành nguồn lực.

Quy hoạch đất đai là một bộ phận trong hệ thống quy hoạch. Tuy nhiên, hiện nay, 3 quy hoạch cơ bản trong hệ thống quy hoạch là quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển đô thị vẫn đang được chế tài bởi hai luật khác nhau, điều này đã gây ra những bất cập. Một là, không rõ quy hoạch nào có trước, quy hoạch nào là nền. Hai là, các quy hoạch không thống nhất về thời gian, phạm vi. Ba là, tính tương tác của các quy hoạch không được điều chỉnh bởi văn bản nào. Bốn là, các quy hoạch chưa khả thi và dễ thay đổi. Năm là, các quy hoạch ít tính chế tài.

Hướng ra của các giải pháp cũng đã được xem xét trong Luật Đất đai năm 2013 và Luật Quy hoạch đang soạn thảo. Tuy nhiên, dường như các giải pháp triệt để vẫn còn ở phía trước. Về dài hạn, các giải pháp là phải đưa tất cả các quy hoạch vào điều chỉnh bởi một văn bản quy phạm pháp luật (có thể là một luật hoặc một pháp lệnh). Trong trung hạn, có thể có một văn bản điều chỉnh các yếu tố liên đới các quy hoạch (có thể là một nghị quyết của Chính phủ hoặc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội). Các quy hoạch phải được điều chỉnh bởi quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và được đặt trên nền bản đồ giải thửa của quy hoạch sử dụng đất. 

Hoàn thiện cơ chế thu hồi, giao đất

Cơ chế thu hồi, giao đất hiện còn một số bất cập. Về cơ bản, quá trình phát triển kinh tế - xã hội tất yếu dẫn đến công nghiệp hóa, đô thị hóa. Do đó, việc thu hồi đất đai của các chủ thể đang sử dụng để giao cho các chủ thể cần để phát triển dự án là tất yếu. Tuy nhiên, cơ chế hiện hành để thu hồi và giao đất thỏa đáng giữa ba bên: Nhà nước - chủ thể bị thu hồi đất - chủ thể được giao đất chưa được tường minh. Mặc dù đã có rất nhiều sửa đổi, bổ sung (Nghị định 69/2009/NĐ-CP, ngày 13-8-2009), các bên thường không thỏa đáng với cơ chế, chính sách hiện hành.

Hơn nữa, một trong những bất cập của vấn đề thu hồi, giao đất, cho thuê đất là, đất đai sau khi được thu hồi (nhiều khi phải cưỡng chế) được giao cho bên nhận đất lại không được sử dụng đúng như cam kết. Nhiều dự án chậm tiến độ khởi công, nhiều dự án triển khai không đúng tiến độ. Thậm chí, một số dự án còn sử dụng sai mục đích. Nhất là, trong giai đoạn thị trường bất động sản trầm lắng hiện nay, một số dự án tọa lạc tại các lô đất rất có giá trị vẫn không triển khai. Về phía các cơ quan quản lý nhà nước, việc chế tài về thu hồi đất hay thúc đẩy tiến độ lại không được như mong muốn.

Vì vậy, cần có một cơ chế đủ mạnh, đủ thuyết phục, hài hòa được lợi ích các bên liên quan trong việc thu hồi, giao đất. Trong khi chưa có được cơ chế như mong muốn, trước mắt, cần công khai các quá trình thu hồi - giao đất. Công khai cả hai chiều: công khai các yếu tố liên quan đến bên thu hồi (diện tích đất, giá trị được đền bù); bên nhận đất giao (ai được nhận, để làm gì) để các bên theo dõi, kiểm tra. Thứ đến, cần có chế tài đủ mạnh đối với những chủ thể nhận giao nhưng không sử dụng đúng tiến độ và mục đích sử dụng đất. Hơn nữa, cần thường xuyên rà soát, đánh giá để đưa ra những giải pháp tốt hơn cho quá trình “hậu thu hồi đất”.

Hoàn thành công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất


Trong công tác quản lý đất đai, việc giao đất, cho thuê đất phải gắn liền với công tác xác lập quyền sử dụng đất và đăng ký quyền sử dụng đất. Đây là hai mặt của một quá trình duy nhất. Nhà nước giao đất cho các chủ thể sử dụng đất phải gắn liền với việc giao cho chủ thể đó giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Chủ thể có thửa đất đó phải đăng ký quyền tài sản của mình với thửa đất đó.

Tuy nhiên, trong thực tiễn, công tác giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các chủ thể sử dụng đất hiện vẫn chưa hoàn thành. Có những loại đất (đất nông nghiệp) đã cấp được tỷ lệ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rất cao. Nhưng có loại đất (đất nội đô đô thị) tỷ lệ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đạt chỉ tiêu đặt ra. Có nhiều lý do cho vấn đề này. Thứ nhất, có những thửa đất không xác định rõ lịch sử, nguồn gốc. Thứ hai, có những thửa đất có tranh chấp do tồn tại lịch sử. Thứ ba, có những thửa đất không xác lập được chủ sử dụng. Thứ tư, có nguyên nhân trong triển khai thực thi giữa các cơ quan (đất đai và xây dựng). Thứ năm, có nguyên nhân do kinh phí không đáp ứng yêu cầu. Ngoài ra còn có nhiều lý do khác…

Để có thể xác lập quyền sử dụng đất cho tất cả các thửa đất, rất cần sự quyết tâm của tất cả các bên liên quan: Các cơ quan nhà nước hướng tới việc xác lập giấy chứng nhận các thửa đất như trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước. Các bên sử dụng phải thấy được lợi ích từ việc thửa đất được xác lập quyền sử dụng. Cuối cùng là, phải có một lộ trình giải quyết triệt để vấn đề này thông qua một văn bản nhà nước có tính pháp lý cao.

Vốn hóa nguồn lực đất đai

Vốn hóa đất đai là một bước quan trọng trong quá trình quản lý đất đai. Từ khi xác lập được quyền sử dụng đất, đất đai phải được định giá, áp giá và đưa vào giao dịch trong xã hội dưới dạng tài sản. Đây là một bước quan trọng nhưng không đơn giản, bởi việc có được sự đồng thuận của các bên có quyền lợi liên quan về giá đất, giá trị đất, giá trị gia tăng của một thửa đất và phân chia lợi ích của các bên liên quan là một công đoạn khó khăn và phức tạp. Đặc biệt, trong bối cảnh nước ta, các bên liên quan chỉ có quyền sử dụng đất nên cần có những nghiên cứu xác lập giá trị thực của quyền sử dụng đất.

Để có thể xác lập giá trị đích thực của quyền sử dụng đất, cần phải tiến hành một số hoạt động. Thứ nhất, thống kê các giao dịch có liên quan. Thứ hai, tích hợp các phương pháp định giá đất trong việc xác định giá trị thửa đất liên quan. Công khai hóa các thông tin về giá giao dịch theo thời gian, từ đó tiệm cận giá trị đúng của thửa đất. Muốn làm được điều này, cần một số hoạt động hỗ trợ về điều tra, thống kê, công cụ phần mềm, hệ thống quản trị thông tin, dữ liệu, các phương pháp tính toán và hệ thống tin học đủ mạnh để quản lý hệ thống thông tin có liên quan. 

Nói rộng hơn, việc vốn hóa đất đai gắn liền với việc nghiên cứu về các chỉ số liên quan đến giá quyền sử dụng đất, giá bất động sản và thị trường bất động sản. Đây là một trong những nội dung khó tách bạch giữa công việc chuyên biệt của quản lý đất đai hay công việc chung của quản lý thị trường bất động sản. Tuy nhiên, đây là một công việc cần làm càng sớm càng có lợi ích trong quản lý đất đai nói riêng và quản lý thị trường bất động sản nói chung.

Một số vấn đề cần tiếp tục trao đổi, thảo luận

Để hoàn thiện hệ thống quản lý đất đai, đồng thời để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ thị trường bất động sản, có một số vấn đề cần tiếp tục thảo luận, trao đổi như sau:

Thứ nhất, tiếp tục làm rõ vai trò đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý đất đai của Nhà nước, đặc biệt là sự phân công, phân cấp của các cấp chính quyền trong thực hành chức năng, nhiệm vụ này. Các cơ quan trung ương thực hiện như thế nào, các cấp chính quyền địa phương thực hiện như thế nào? Vấn đề phân công, phân cấp và phân nhiệm là một nội dung cơ bản trong quản lý nhà nước về kinh tế, vấn đề này rất cần được đặt ra giải quyết trong bối cảnh tiếp tục phân cấp mạnh hơn nữa cho chính quyền địa phương đồng thời với việc tăng cường vai trò điều chỉnh vĩ mô của các cơ quan trung ương.

- Thứ hai, cùng với quá trình hội nhập và mở rộng các chủ thể có yếu tố nước ngoài trong việc mua và sở hữu bất động sản trên lãnh thổ Việt Nam, Luật Nhà ở và Luật Kinh doanh bất động sản có đề cập đến việc mở rộng đối tượng. Vấn đề đặt ra là, việc xác lập các quyền có liên quan đến đất đai sẽ được xử lý thế nào cho tương thích với luật pháp quốc tế. Đồng thời, làm sao vừa thu hút được luồng vốn có yếu tố nước ngoài, luồng vốn trong dân vừa bảo đảm được tính chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước.

- Thứ ba, đến nay, luật pháp liên quan đến đất đai vẫn chưa cho phép thế chấp quyền sử dụng đất tại các tổ chức tín dụng không hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là, cùng với việc mở rộng đối tượng và phạm vi hoạt động của các chủ thể, nhất là các chủ thể có yếu tố nước ngoài, việc các chủ thể này thế chấp tài sản của họ ở quốc gia của họ là một vấn đề tự nhiên. Nhưng khi tài sản có liên quan đến đất đai của Việt Nam thì vấn đề này sẽ được xử lý như thế nào? Đây là vấn đề mang tính mở và cần xử lý trước khi có những xung đột về lợi ích.

- Thứ tư, vấn đề đồng bộ hóa các quy hoạch sẽ được xử lý như thế nào? Xây dựng một văn bản pháp quy chung cho các quy hoạch hay một văn bản hài hóa hóa các quy hoạch? Các vấn đề liên quan đến tài chính để làm quy hoạch? Vấn đề quy hoạch nào làm trước, quy hoạch nào làm sau? Khi xung đột quy hoạch thì lấy quy hoạch nào làm gốc… Vấn đề điều chỉnh quy hoạch do ai làm, khi nào được điều chỉnh… Hơn nữa, vấn đề quy hoạch cấp vùng nằm ở đâu trong hệ thống quy hoạch đất đai hiện nay?

- Thứ năm, vấn đề thu hồi và giao đất có liên quan đến một vấn đề căn bản: những chủ thể nào thì được thu hồi đất và đến mức độ nào thì được cưỡng chế cho các dự án phát triển kinh tế. Có nhiều luồng ý kiến cho rằng, Nhà nước cần đứng ra thu hồi đất của các chủ thể sử dụng để giao cho các nhà đầu tư (và khi đã thu hồi được một tỷ lệ nhất định - có thể khoảng trên 85% sẽ tiến hành cưỡng chế phần còn lại). Cũng có ý kiến cho rằng, chủ yếu công tác thu hồi là dựa trên thỏa thuận giữa các bên hữu quan, Nhà nước chỉ đứng ra làm chủ thể cân bằng… Đây là những vấn đề đang cần được giải quyết để thị trường bất động sản nói chung và thị trường quyền sử dụng đất nói riêng tiến lên một bước mới./.

TS. Trần Kim ChungPhó Viện trưởng, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương 

 

Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam sau gần 30 năm đổi mới

TCCSĐT - Với nhiều nỗ lực thay đổi tư duy, quan điểm và hành động, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã và đang đạt được nhiều thành tựu đáng kể trên nhiều lĩnh vực, song vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra cần khắc phục.

Quá trình nhận thức và việc triển khai các chính sách thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam


Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện và sâu sắc mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Sự nghiệp đổi mới của Việt Nam được tiến hành trong bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi sâu sắc và một cục diện, trật tự thế giới mới đang hình thành, trong đó các nước có chế độ chính trị khác nhau vừa đấu tranh vừa hợp tác với nhau. Đảng đã nhận thức rõ rằng bối cảnh đó là điều kiện để chúng ta phát triển đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và rộng mở.

Đại hội Đảng lần thứ VII (năm 1991) đã xác định rõ chủ trương “độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại” với phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”, đánh dấu bước khởi đầu tiến trình hội nhập trong giai đoạn mới của nước ta. Thực hiện chủ trương này, Việt Nam đã không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế đối ngoại song phương và đa phương với nhiều đối tác, dưới nhiều hình thức, trên nhiều lĩnh vực (trao đổi hàng hóa, đầu tư sản xuất, mở rộng quan hệ tài chính - tín dụng, hợp tác khoa học kỹ thuật), tạo ra môi trường kinh doanh trong nước thuận lợi và khai thác hiệu quả các nguồn lực bên ngoài phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước. Thực tế giai đoạn đó cho thấy chủ trương đúng đắn của Đảng đã đánh dấu bước khởi đầu của Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.

Tháng 11-1996, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 01-NQ/TW về mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại giai đoạn 1996 - 2000. Tới năm 2001, Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng khẳng định chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững” theo nguyên tắc “bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”.

Sau khi nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào tháng 01-2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 05-02-2007 về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO. Nghị quyết đã nêu rõ các cơ hội và thách thức của việc gia nhập WTO và đề ra các định hướng lớn để nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và bền vững sau khi gia nhập WTO. Trên tinh thần đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 16/2007/NQ-CP, ngày 27-2-2007, Chương trình hành động của Chính phủ về “Một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO”; giao các bộ, ngành, địa phương triển khai các nhiệm vụ cụ thể nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức, đưa nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới.

Tháng 01-2011, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới, trong đó có chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Ngày 10-4-2013, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế. Đây là văn kiện quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, làm rõ và thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân về hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Nghị quyết đã xác định rõ hội nhập quốc tế sẽ được triển khai sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt, hội nhập kinh tế phải gắn với yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu lại nền kinh tế.

Thực hiện chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã đạt được những kết quả vững chắc. Việt Nam đã gia nhập ASEAN vào tháng 7-1995, ký kết Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) vào năm 2000, gia nhập WTO vào tháng 01-2007 và tham gia 08 Hiệp định Thương mại tự do (FTA) khu vực và song phương. Cụ thể, ta đã cùng với các nước ASEAN ký các Hiệp định thương mại tự do giữa khối ASEAN với các đối tác như Trung Quốc vào năm 2004, với Hàn Quốc vào năm 2006, với Nhật Bản năm 2008, với Ôt-xtrây-lia và Niu-Di-lân vào năm 2009, với Ấn Độ năm 2009. Ngoài ra, ta đã ký 2 FTA song phương là FTA Việt Nam - Nhật Bản năm 2008 và FTA Việt Nam - Chi-lê năm 2011.

Việt Nam cũng đang tích cực tham gia đàm phán 6 FTA khác, gồm Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), FTA với Liên minh châu Âu (EU), với Liên minh thuế quan Nga - Bê-la-rút - Ca-dắc-xtan, với Khối thương mại tự do châu Âu (EFTA) gồm các nước Thụy Sỹ, Na-uy, Lích-tân-xten và Ai-xơ-len, FTA với Hàn Quốc và FTA giữa khối ASEAN với Hồng Công (Trung Quốc). Ngoài ra, ta cũng tích cực chủ động tham gia sâu vào diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), đã đăng cai năm APEC 2006 và tiến tới sẽ đăng cai APEC năm 2017 với hàng trăm cuộc họp từ cấp chuyên viên đến cấp cao.

Một số thành tựu của quá trình gần 30 năm hội nhập kinh tế quốc tế 

Một là, Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với các nước, các tổ chức quốc tế

Chúng ta đã là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO cũng như nhiều định chế tài chính như WB, ADB, IMF... Việc gia nhập WTO vào năm 2007 đã mở ra quan hệ thương mại bình đẳng giữa Việt Nam với 150 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đây là một thành tựu quan trọng của việc thực hiện chính sách đối ngoại đổi mới, đưa Việt Nam trở thành quốc gia bình đẳng trong thương mại với các nước trên thế giới. 

Ngoài ra, ta đã có quan hệ thương mại với trên hai trăm quốc gia và vùng lãnh thổ ở khắp các châu lục; trên một trăm quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư ở Việt Nam và doanh nghiệp Việt Nam đã có dự án đầu tư ở trên bảy mươi quốc gia và vùng lãnh thổ.

Với việc mở rộng thị trường và quan hệ hợp tác như vậy, ta đã ngày càng tham gia sâu rộng vào các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế, ngày càng có tiếng nói quan trọng với ý thức trách nhiệm cao trong các diễn đàn khu vực và thế giới, do đó đã góp phần mở rộng thị trường, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, tạo điều kiện cho mô hình kinh tế hướng về xuất khẩu của ta, mở rộng thị trường hàng nhập khẩu, góp phần phục vụ chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời từng bước khẳng định được hình ảnh và vị thế của một quốc gia thành công trong quá trình đổi mới.

Hai là, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 

Nếu như tăng trưởng GDP bình quân thời kỳ 1986 - 1990 chỉ đạt 4,4%/năm thì bình quân thời kỳ 1991 - 2011 đạt 7,34%/năm. Đặc biệt, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã duy trì tốc độ tăng trưởng cao, trong năm 2007, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 8,46% (là mức cao nhất trong vòng 11 năm trước đó). Do ảnh hưởng từ những biến động của nền kinh tế thế giới, tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2011 - 2013 giảm xuống còn 5,6%. Ngoài ra, có thể nói thành tựu về tăng trưởng kinh tế được nhìn nhận một cách rõ ràng nhất là đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và ra khỏi danh sách các nước kém phát triển sau 30 năm đổi mới.

Đối với hoạt động xuất, nhập khẩu, từ năm 1986 đến nay, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng đều qua các năm. So với năm 1986 (kim ngạch xuất khẩu đạt 789,1 triệu USD) thì kim ngạch xuất khẩu năm 2013 tăng gấp khoảng 167 lần (132,2 tỷ USD). Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt trên thị trường 220 nước và vùng lãnh thổ, hầu hết các châu lục. Nước ta có vị thế ngày càng lớn trong xuất khẩu hàng hóa toàn cầu và được xếp vào nhóm 30 nền kinh tế xuất khẩu hàng hóa hàng đầu thế giới. Từ chỗ thường xuyên nhập siêu, Việt Nam đã chuyển sang cân bằng xuất, nhập khẩu, thậm chí là có xuất siêu. Năm 2012, Việt Nam đã xuất siêu 287 triệu USD, năm 2013 xuất siêu 9 triệu USD và 10 tháng đầu năm 2014 xuất siêu 1,9 tỷ USD.

Ba là, thúc đẩy và thu hút vốn đầu tư nước ngoài

Thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, vốn đầu tư nước ngoài (FDI) liên tục phát triển cả về tổng vốn, cả về số dự án, cả về quy mô vốn/ dự án… Giai đoạn 1991 - 1997 đã diễn ra làn sóng FDI vào Việt Nam lần thứ nhất với 2.230 dự án và vốn đăng ký là 16,244 tỷ USD. Việc thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là cam kết gia nhập WTO đã giúp hoàn thiện và làm minh bạch hệ thống pháp luật, nâng cao sức hấp dẫn của Việt Nam đối với nhà đầu tư nước ngoài. Vốn FDI trong năm 2007 đã có mức tăng trưởng 75,3% và năm 2008 là 42,6%. 

Trong năm 2013, tổng vốn đầu tư FDI vào Việt Nam đã đạt 22,35 tỷ USD. Khu vực doanh nghiệp FDI đã giải quyết việc làm cho khoảng hơn 2 triệu lao động trực tiếp, và hàng chục triệu lao động gián tiếp, chiếm hơn 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, góp phần tăng vốn đầu tư phát triển xã hội, tăng kim ngạch xuất khẩu, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội. 

Bốn là, góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế, cải thiện tích cực môi trường trong nước

Hệ thống luật pháp trong nước cũng không ngừng được sửa đổi theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch hơn, bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.

Trong thời gian gần 10 năm trở lại đây, để thực hiện các cam kết gia nhập WTO như tự do hóa quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu, xóa bỏ các hạn chế xuất, nhập khẩu, xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu gây bóp méo cạnh tranh, giảm thiểu sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp, các cam kết mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ, minh bạch hóa chính sách… hệ thống pháp luật của ta đã và đang tiếp tục được hoàn thiện theo hướng ngày càng trở nên rõ ràng, minh bạch hơn, tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng trong nước.

Một số hạn chế của quá trình gần 30 năm hội nhập kinh tế quốc tế

Việt Nam cũng gặp phải không ít thách thức, hạn chế mà cụ thể là: 

Thứ nhất, trong một thời gian dài trước khi Chính phủ ban hành Chiến lược tham gia các thỏa thuận thương mại tự do (FTA) đến năm 2020, việc tham gia các FTA chưa thực sự chủ động và mới chỉ tập trung vào các lợi ích mang tính ngắn hạn như cắt giảm thuế quan, mà chưa chú trọng đúng mức đến các mục tiêu dài hạn như nâng cao năng lực cạnh tranh, chất lượng tăng trưởng, cải cách môi trường, thể chế trong nước.

Thứ hai, việc triển khai hội nhập kinh tế quốc tế chưa thực sự gắn kết đầy đủ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, các chiến lược phát triển ngành. Việc tập trung các nỗ lực hội nhập kinh tế vào khu vực Đông Á đã làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế nước ta vào các nền kinh tế lớn trong khu vực về các nguồn nguyên phụ liệu, máy móc thiết bị, đầu tư, công nghệ và tài chính.

Thứ ba, sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm của ta mặc dù đã được cải thiện nhưng vẫn còn yếu so với các nước, kể cả các nước trong khu vực. Các ngành kinh tế, các doanh nghiệp mang tính mũi nhọn, có khả năng vươn ra chiếm lĩnh thị trường khu vực và thế giới chưa nhiều, chưa có khả năng đi đầu, kéo các ngành, các doanh nghiệp khác cùng phát triển. Một số sản phẩm đã gặp khó khăn trong cạnh tranh, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu dù cao hơn nhiều các nước khác trong khu vực nhưng bắt đầu có xu hướng giảm, cơ cấu hàng xuất khẩu còn nghèo nàn.

Thứ tư, các cam kết mở cửa thị trường của ta trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện cho các nước đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa vào Việt Nam, trong khi đó, ta chưa thiết kế được những biện pháp bảo hộ phù hợp với cam kết quốc tế để bảo hộ sản xuất trong nước. 

Thứ năm, chất lượng tăng trưởng vẫn chưa được cải thiện về căn bản. Hiệu quả đầu tư chưa được cao như mong muốn. Tăng trưởng của ta thời gian qua phần nhiều dựa vào các yếu tố như tín dụng, lao động rẻ mà thiếu sự đóng góp đáng kể của việc gia tăng năng suất lao động hay hàm lượng tri thức. 

Thứ sáu, công tác phối hợp về hội nhập giữa các bộ, ngành, giữa các cơ quan Trung ương với các địa phương, doanh nghiệp chưa tốt. Nhiều vấn đề mang tính liên ngành chậm được xử lý đặc biệt là trong lĩnh vực nâng cao hiệu quả đầu tư, nâng cao sức cạnh tranh, phát triển đồng bộ các yếu tố kinh tế thị trường. 

Một số khuyến nghị chính sách trong thời gian tới

Để đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, trong thời gian tới, cần phối hợp nhiều nhóm giải pháp nhằm khắc phục những vấn đề còn tồn đọng, đồng thời khai thác tối đa những lợi ích mà hội nhập kinh tế quốc tế đem lại. Các giải pháp chính là: 

Thứ nhất, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để thực hiện đầy đủ các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình đã đề ra. Trong việc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp quy hiện hành, cần cố gắng bảo đảm tính đồng bộ, hiệu quả, duy trì ổn định môi trường đầu tư, kinh doanh, không gây xáo trộn, ảnh hưởng đến lợi ích của các doanh nghiệp đang hoạt động cũng như các nhà đầu tư mới.

Thứ hai, thường xuyên, kịp thời rà soát, sửa đổi, điều chỉnh, xóa bỏ quy định không phù hợp với các cam kết quốc tế nhằm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ trong các điều ước quốc tế song phương, khu vực và đa phương mà Việt Nam là thành viên; đồng thời, xem xét nới lỏng các điều kiện đầu tư, kinh doanh trong một số ngành, lĩnh vực tuy không cam kết mở cửa, hoặc cam kết chặt chẽ hơn quy định pháp luật hiện hành nhưng phù hợp với nhu cầu phát triển và định hướng thu hút đầu tư của nước ta trong thời gian tới.

Thứ ba, nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành để tận dụng tối đa những lợi ích của hội nhập kinh tế quốc tế. Cần tiến hành đánh giá mức độ cạnh tranh của các ngành, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch nâng cao khả năng cạnh tranh cho những ngành có lợi thế cạnh tranh và định hướng điều chỉnh sản xuất cho các ngành, doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh. Đối với các ngành xuất khẩu chủ lực, cần có chính sách để chuyển dần từ gia công sang tự xuất khẩu. Cần có chính sách thúc đẩy tăng hàm lượng giá trị gia tăng trong tất cả các ngành của nền kinh tế thông qua nâng cấp nhân lực, công nghệ, tiếp cận công nghệ nguồn tốt hơn, hợp tác dài hạn với các đối tác mạnh trong lĩnh vực tương ứng, đa dạng hóa, đổi mới sản phẩm.

Thứ tư, phát triển các ngành quan trọng đối với nền kinh tế. Cần có chính sách phát triển các ngành công nghiệp chế biến mà Việt Nam có tiềm năng và lợi thế, nhất là chế biến nông sản. Chú trọng phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ để tránh phụ thuộc quá lớn vào nguyên vật liệu nhập khẩu và những cú sốc khi giá nguyên vật liệu trên thị trường quốc tế tăng, đồng thời tiết kiệm được một nguồn ngoại tệ lớn. Thúc đẩy các ngành dịch vụ hỗ trợ kinh doanh như tài chính, tín dụng, khoa học, công nghệ, ngành chế biến nông sản, có chính sách thu hút đầu tư vào các ngành này.

Thứ năm, tăng cường nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trong đó đặc biệt coi trọng năng lực cán bộ, phân bổ hiệu quả nguồn nhân lực, tăng cường nâng cao nhận thức cho các nhà hoạch định chính sách, cán bộ cơ quan quản lý nhà nước và các doanh nhân về quyền lợi và nghĩa vụ của Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế. Song song với việc thực hiện cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, một nhiệm vụ rất quan trọng đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách là phải xây dựng chính sách theo hướng tự do hóa thương mại đồng thời thúc đẩy sản xuất kinh doanh trong nước, tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp non trẻ. Về phía doanh nghiệp, nâng cao nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế, cụ thể là các quyền và nghĩa vụ của Việt Nam khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, các nguyên tắc, quy định cơ bản của WTO và diễn đàn thương mại khu vực nhằm giúp doanh nghiệp hiểu và vận dụng tối đa lợi ích của hội nhập kinh tế quốc tế trong kinh doanh, tự bảo vệ mình trong các tranh chấp thương mại quốc tế./.
TS. Nguyễn Độ Học viện Báo chí và Tuyên truyền 

Các bài viết khác

Luật sư tư vấn miễn phí

Gọi ngay
0902818158- 0906834543
0906834543
0902818158

Tin pháp luật

CÁC ĐỐI TÁC

  • Nhà Đất Phúc An Khang
  • The Diplomat
  • The NewYork Review of Book
  • CogitAsia
  • Reuters
  • Viet Studies
  • The NewYork Times
  • TIME
  • Bloomberg Bussiness