TIN TỨC

fanpage

Thống kê truy cập

  • Online: 17
  • Hôm nay: 2231
  • Tháng: 12509
  • Tổng truy cập: 5157773
Chi tiết bài viết

Chống biến đổi khí hậu sẽ giúp Đông Nam Á tạo ra 12500 tỷ USD

Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đối với nước ta: Thực trạng, những vấn đề mới đặt ra và giải pháp.

1. Đặt vấn đề.

Việt Nam là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu (BĐKH), tác động của biến đổi khí hậu thậm chí còn diễn biến nhanh hơn so với dự kiến, chính vì vậy cần phải có những đánh giá hiện trạng, dự báo chính xác để từ đó có những giải pháp phù hợp cho ứng phó với biến đổi khí hậu thích hợp, tránh được những tác động tiêu cực giảm những thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra. BĐKH là vấn đề có tính toàn cấu, Việt Nam đã cam kết với thế giới cùng nỗ lực giảm thiểu khí phát thải gây hiệu ứng nhà kính, tận dụng cơ hội này để chúng ta cùng phối hợp giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH, biến thách thức thành cơ hội do BĐKH gây ra.

2. Thực trạng ảnh hưởng của biến đổi khí hậu ở Việt Nam.

a) Biến đổi khí hậu ảnh hưởng tới ngành lĩnh vực

Biến đổi khí hậu ở Việt Nam diễn biến phức tạp, thực tiễn diễn ra trong những năm vừa qua cho thấy biến đổi khí hậu diễn ra nhanh hơn so với dự kiến, nhìn lại đối chiếu với những nhận định trước đây, thời điểm trước năm 2010, khởi đầu của nhiều nghiên cứu về thiệt hạ của biến đổi khí hậu trên thế giới, nước ta vẫn là quốc gia chịu tác động rất nặng nề của biến đổi khí hậu. Trong một nghiên cứu tác động của biến đổi khí hậu đối với các nước đang phát triển của Ngân hàng thế giới đưa ra những nhận định dự báo từ năm 2007 cho thấy  Việt Nam là nước chịu thiệt hại nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, căn cứ vào kịch bản nước biển dâng một trong những yếu tố cơ bản của biến đổi khí hậu, thể hiện rõ nhất thông qua biểu đồ hình 1 dưới đây của tác giả Đỗ Nam Thắng dựa trên nghiên cứu của Dasgupta et al 2007 cho thấy so sánh với 10 nước đang phát triển chịu tác động của biến đổi khí hậu thì Việt Nam là quốc gia chịu thiệt hại tính trên GDP cao nhất.

Hình 1. Dự báo tác động của dâng mực nước biển 1 m đến GDP (tỷ lệ thiệt hại GDP)

 

Nguồn: Đỗ Nam Thắng trích từ nghiên cứu của Dasgupta et al. 2007.

Theo kịch bản phân tích đối với BĐKH. Kết quả tính toán dự báo thể hiện thông qua bảng 1 dưới đây cho thấy  nếu mực nước biển dâng caothêm 1m sẽ có 10,8 triệu người ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng chịu ảnh hưởng, có khoảng 10,21% GDP,  7,14% diện tích đất nông nghiệp, 28,67% diện tích đất ngập nước  và 10,74% diện tích đô thị sẽ bị ảnh hưởng..

Bảng 1. Dự báo tác động của việc dâng mực nước biển 1 m ở Việt Nam

 

Tổng số

Chịu tác động (giá trị tuyệt đối)

Chịu tác động (tỷ lệ %)

Diện tích (km2)

328.535

16.977

5,17

Dân số (triệu người)

78,137

8,437

10,8

GDP (tỷ USD)

154,787

15,805

10,21

Diện tích đô thị (km2)

5.904

634

10,74

Diện tích nông nghiệp (km2)

192.816

13.773

7,14

Đất ngập nước (km2)

46.179

13.241

28,67

Nguồn: Đỗ Nam Thắng trích từ nghiên cứu của Dasgupta et al. 2007.

Trong những năm gần đây, nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu cũng đã chỉ ra nhiều vấn đề cần phải lưu tâm, chẳng hạn năm 2017 là năm có số lượng các cơn bão ảnh hưởng tới nước ta nhiều bất thường (16 cơn bão), theo tính  toán của Ban chỉ đạo trung ương về phòng chống thiên tai và tổng cục thống kê thiệt hại khoảng 38,7 nghìn tỷ đồng tương đương 2,7 tỷ USD.

Ảnh hưởng của BĐKH đến hoạt động sản xuất thấy rõ nhất là đối với ngành nông nghiệp. Ở Việt Nam với đặc trưng của khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Nam Á, trong sản xuất nông nghiệp, lúa là loại cây trồng chủ lực, ảnh hưởng của BĐKH đến sản xuất lúa hàng năm chiếm tỷ trọng lớn nhất, theo tính toán của tổng cục thống kê năm 2018  trung bình cho giai đoạn 2011-2016 khoảng 66,1% . Riêng năm 2016 hạn hán và xâm nhập mặn ảnh hưởng đến 527,7 nghàn ha lúa bị thiệt hại, trong đó khoảng 44% diện tích bị thiệt hại hoàn toàn. Đối với các loại cây trồng khác như hoa màu, các loại cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày cũng bị ảnh hưởng, năng suất cây trồng giảm khoảng 50% do tác động của BĐKH. Ảnh hưởng của BĐKH còn tác động đến chăn nuôi, lâm nghiệp, đa dạng sinh học, cháy rừng, các hệ sinh thái đất ngập nước, nuôi trồng thủy sản…, như vậy đối với sản xuất nông nghiệp cần phải có một cách nhìn nhận mới và toàn diện hơn đặt trong bối cảnh hoàn động sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng của BĐKH

Biến đổi khí hậu còn ảnh hưởng tới hoạt động giao thông vận tải, theo nghiên cứu của kịch bản BĐKH nếu mực nước biển dâng cao 1m có khoảng 9% hệ thống  đường quốc lộ, 12% hệ thống đường tỉnh lộ, 4% hệ thống đường sắt sẽ bị ảnh  hưởng, trong đó tập trung nhiều nhất ở khu vực đồng bằng sông Cửu long chiếm 28% đường quốc lộ và 27%  đường tỉnh lộ của cả nước, tiếp đến là các tỉnh ven biển miền Trung và đống bằng sông Hồng.

Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến phát triển đô thị, các khu công nghiệp và nhà ở, mức độ ảnh hưởng tùy thuộc vào từng vùng, từng địa phương và từng vị trí theo địa hình phân bố. Nghiên cứu tổng thể cho thấy khu vực ven biển chịu tác động chính của bão, vùng miền núi chịu tác động của lũ quét, lốc xoáy, sạt lở, vùng trung du và đồng bằng chủ yếu là ngập lụt, lốc xoáy, mưa đá.

Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến du lịch, thương mại, năng lượng…và nhiều hoạt động kinh tế khác trực tiếp hay gián tiếp. Những ảnh hưởng này trong những năm vừa qua đã biểu hiện khá rõ nét, mỗi ngành, lĩnh vực đều có thể cảm nhận và đánh giá được ảnh hưởng của BĐKH.

Đối với công nghiệp, ảnh hưởng của BĐKH khí hậu sẽ tác động đến ngành công nghiệp chế biến, nhất là chế biến những sản phẩm nông nghiệp. Trong trường hợp nhiệt độ tăng sẽ làm tăng tiêu thụ năng lượng kéo theo nhiều hoạt động khác tăng theo như tăng công suất nhà máy phát điện, tăng sử dụng các thiết bị làm mát, ảnh hướng tới an ninh năng lượng quốc gia. Những nghiên cứu theo kịch bản nước biển dâng cho thấy, nếu mực nước biển dâng cao 1m sẽ làm cho hầu hết các khu công nghiệp ven biển bị ngập,mức thấp nhất trên 10% diện tích, mức cao nhất khoảng 67% diện tích.

Đối với bình đẳng giới, những nghiên cứu gần đây cho thấy BĐKH ảnh hưởng tới công việc của phụ nữ, nữ giới là nhóm dễ bị tổn thương do BĐKH, ảnh hưởng tới sức khỏe, kinh tế hộ gia đình và vấn đề di cư. Thực trạng này đã và đang thể hiện ngày càng rõ ở những vùng chịu nhiều tác động của BĐKH như vùng ĐBSCL và khu vực ven biển, khu vực nông thôn.

Bên cạnh những ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH, chúng ta cũng phải nhìn nhận toàn diện hơn đối với những ảnh hưởng có tính tích cực, chẳng hạn trong sản xuất nông nghiệp đối với lượng mưa, bên cạnh những tác động tiêu cực, cũng sẽ có những vùng có tác động tích cực. Trong sản xuất nông nghiệp, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và mùa vụ do BĐKH cần phải được phân tích kỹ lưỡng để thầy được những mặt tích cực và tiêu cực lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí cơ bản để đánh giá.

 

b) Biến đổi khí hậu ảnh hưởng theo lãnh thổ.

Do đặc điểm địa lý, mỗi khu vực có vị trí Địa lý và địa hình khác nhau, mức độ chịu ảnh hưởng của BĐKH đối với mỗi vùng cũng khác nhau, dựa trên tiêu chí cơ bản về nước biển dâng, đặc trưng ảnh hưởng của biến đổi khí hậu có thể chia thành ba địa bàn lãnh thổ gồm đồng bằng, ven biển và miền núi.

  • Đối với vùng đồng bằng, nước ta có hai vùng đồng bằng lớn đó là Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) và đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Đối với ĐBSCL là vùng chịu tác động nặng nề nhất của BĐKH, theo tính toán kịch bản BĐKH, đến cuối thế kỷ 21 nhiệt độ tăng khoảng 3,4 độ C, mực nước biển tăng thêm 1m sẽ có khoảng 40% diện tích đất bị ngập vĩnh viến, khoảng 10% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp do mất đất, thêm vào đó BĐKH diễn ra ở ĐBSCL kéo theo hạn hán, xâm nhập mặn, sạt lở và nhiều hệ lụy đi kèm như đã từng diễn ra những năm gần đây.

    Đối với ĐBSH, với kịch bản nước biển dâng cao 1m vào cuối thế kỷ 21, ĐBSH sẽ có 240.000 ha đất sản xuất nông nghiệp của vùng bị ảnh hưởng, dự báo năng suất lúa giảm 8%-15% vào năm 2030 và lên tới 30% vào năm 2050. Nếu tính tỷ lệ diện tích đất bị ngập nước khi nước biển dâng cao 1m vào cuối thế kỷ 21 có khoảng 3% diện tích bị ngập, trong đó 1,4% diện tích trồng lúa, 0,6% khu dân cư bị ảnh hưởng. Những tỉnh chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là Thái Bình, diện tích đất bị mất khoảng 31,2%, Nam Định 24% và thành phố Hải phòng 17,4%. So với ĐBSCL, ĐBSH ngập lụt ít hơn và ảnh hưởng của hạn hán, xâm nhập mặn thấp hơn, tuy nhiên tính chất cực đoan và tính dị thường của BĐKH và rủi ro cao hơn, nhất là gió bão sẽ tác động mạnh hơn so với ĐBSCL.

  • Đối với vùng ven biển, nhất là khu vực ven biển Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ, ảnh hưởng của BĐKH lớn nhất là bão, áp thấp nhiệt đới. Đối với khu vực ven biển miền Trung hank hán, lũ lụt, sạt lở đất, thoái hóa đất diễn ra mạnh mẽ hơn. Những vùng ven biểu còn chịu ảnh hưởng của xâm nhập mặn. Theo tính toán nếu mực nước biển dâng cao thêm 1m, một số khu vực trũng đồng bằng ven biển miền trung sẽ bị ngập như ở Thanh Hóa.
  • Đối với khu vực miền núi, đặc điểm khu vực miền núi của nước ta phân bố nhiều dân tộc ít người, trình độ dân trí thấp, do vậy ảnh hưởng của BĐKH diễn ra khả năng chống đỡ hạn chế. Ảnh hưởng chính của BĐKH khu vực này là tính dị thường của BĐKH, trong nền chung nhiệt độ tăng sẽ càng trầm trọng hơn thiếu nước về mùa khô, nhất là Tây Nguyên và Tây Bắc, suy giảm đa dạng sinh học, sự thay đổi hệ sinh thái. Nhiệt độ giảm sâu tác động tới chăn nuôi gia súc, gia cầm nhất là đối với trâu bò, thực tiễn những năm vừa qua cho thấy, khi nhiệt độ giảm sâu một lượng lớn trâu bò ở miền núi phía Bắc chết nhiều. Ảnh hưởng của BĐKH gây ra lũ quét, sạt lở đất, lốc xoáy, mưa đá là những hiện tượng khá phổ biến. Khu vực miền núi Bắc Trung Bộ với nền nhiệt tăng, cùng với khô hạn dễ dẫn đến cháy rừng, suy giảm đa dạng sinh học tác động tới đời sống nhân dân.

Ảnh hưởng BĐKH tùy thuộc vào mỗi địa bàn lãnh thổ như đã nêu không giống nhau, do vậy phải có những giải pháp phù hợp theo vùng, nhất là trong bối cảnh mới tình hình diễn biến phức tạp, tính rủi ro của BĐKH ngày càng gia tăng. Bên cạnh đó cũng có những vùng, do ảnh hưởng của BĐKH bên cạnh những tác động tiêu cực cũng có những tác động tích cực, chẳng hạn nhiệt độ tăng, giờ nắng nhiều là cơ hội cho phát triển năng lượng mặt trời, có những vùng bị tác động tiêu cực, nhưng cũng có nơi tác động tích cực. Như vậy đòi hỏi phải có một nhìn nhận có tính toàn diện ảnh hưởng của BĐKH theo vùng, phân bố theo không gian lãnh thổ.

3. Những giải pháp cần có đối với ảnh hưởng của Biến đổi khí hậu.

Nhằm hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực và tận dụng những mặt tích cực của BĐKH dựa trên cơ sở đánh giá khách quan và những dự báo có tính dài hạn để từ đó có những giải pháp phù hợp.

Thứ nhất, tăng cường phổ biến, truyền thông, nâng cao nhận thức về ảnh hưởng của BĐKH cho mọi tầng lớp nhân dân, các cấp, các ngành nhất là những diễn biến trong bối cảnh mới. Sau đại dịch Covid-19, cần có cách thức mới để người dân thấy được BĐKH cũng là nguyên nhân tác động tới sức khỏe và ảnh hưởng tới hệ sinh thái, con người gắn bó với hệ sinh thái và phải chống chịu, thích ứng.

Thứ hai, BĐKH đã được khẳng định là một nhân tố ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống, kinh tế-xã hội, Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của BĐKH, do vậy về quan điểm chúng ta chấp nhận những ảnh hưởng này để có những giải pháp phù hợp, trong đó có những ảnh hưởng tiêu cực nhưng đồng thời cũng có những ảnh hưởng có tính tích cực, biến những thách thức của BĐKH thành những cơ hội để chủ động giảm thiểu và thích ứng dựa trên nguyên tắc giải quyết hài hòa, tính  hiệu quả, phù hợp với diễn thế của thiên nhiên được đặt lên hàng đầu.

Thứ ba, xét trong bối cảnh mới, một trong những điểm nghẽn để giải quyết những vấn đề liên quan đến thể chế đó là “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Giải pháp phù hợp trong ứng phó với BĐKH cần dựa vào tiếp cận thị trường (MBA), trước hết là vai trò của doanh nghiệp và người dân nhằm tạo ra cơ chế tạo nguồn lực, nhất là nguồn lực tài chính. Hiện tại quỹ ứng phó với BĐKH đã và đang vận hành ở nhiều quốc gia phát triển trên thế giới như một số nước ở chấu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc…, nếu doanh nghiệp và người dân tiếp cận quỹ này sẽ có được nguồn lực tài chính không phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước. Thị trường Cac Bon là một cơ chế tài chính tốt trên thị trường, Việt Nam nên sớm hình thành và tham gia vào thị trường này.

Thứ tư, cần phải căn cứ vào kịch bản đưa ra do BĐKH, nhất là kịch bản nước biển dâng thêm 1m từ nay đến cuối thế kỷ 21 để có những tính toán đầy đủ và phương án qui hoạch phù hợp đối với hoạt động sản xuất các ngành, lĩnh vực, phân bố dân cư và chuyển đổi phát triển kinh tế theo cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ phù hợp.

Thứ năm, trong qui hoạch và xây dựng chính sách cần phải lồng ghép yếu tố BĐKH để có biện pháp chủ động ứng phó phù hợp với những ảnh hưởng của BĐKH đối với từng ngành, lĩnh vực và từng vùng phù hợp với thực tiễn đang và sẽ diễn ra.

Thứ sáu, cần có những giải pháp cho từng ngành, lĩnh vực và từng vùng đối với ảnh hưởng của BĐKH xét trong bối cảnh mới. Trước hết chú trọng tới ngành nông nghiệp trong việc cơ cấu lại cây trồng, vật nuôi do những ảnh hưởng của BĐKH không chỉ chống chịu mà còn mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Đối với từng vùng, ưu tiên hàng đầu là vùng ĐBSCL, triển khai và thực hiện tốt Nghị quyết 120 của Chính phủ để phát triển bền vững vùng ĐBSCL trong bối cảnh BĐKH. Những vùng khác phụ thuộc vào đặc trưng của mỗi vùng để có những giải pháp phù hợp, đối với vùng ven biển, ưu tiên hàng đầu là ứng phó với bão, áp thấp nhiệt đới, đối với vùng miền núi là lũ lụt, lũ quét, hạn hán, lốc xoáy và thoái hóa đất.

Thứ bảy, tăng cường khả năng chống chịu trước ảnh hưởng của BĐKH, phát triển các mô hình kinh tế dựa vào hệ sinh thái (EbA),  dựa vào cộng đồng (CbA) và dựa vào tự nhiên (NbS), cho mỗi địa phương, lấy kiến thức bản địa kết hợp với khoa học công nghệ mới đầu tư phát triển, đặt sinh kế và sự an toàn của người dân lên hàng đầu. Từ những kết quả đạt được, nhân rộng mô hình cho từng địa phương, cho từng vùng.

Thứ tám, biến đổi khí hậu là vấn đề có tính toàn cầu, chỉ một mình Việt Nam sẽ không giải quyết được, chính vì vậy cần có sự phối hợp với các tổ chức, các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, hơn nữa chúng ta đã cam kết cùng nỗ lực toàn cầu để giảm thiểu phát thải khí nhà kính, chính vì vậy cần tăng cường hơn nữa hợp tác quốc tế, nắm bắt cơ hội để có những chuyển giao về khoa học công nghệ thế hệ mới, đầu tư tài chính và kinh nghiệm quốc tế trong ứng phó với BĐKH.

4. Kết luận.

 Ảnh hưởng của BĐKH đối với Việt Nam những năm vừa qua nhanh hơn so với dự kiến. So với kịch bản biến đổi khí hậu, nhất là dự kiến mực nước biển dâng cao 1m vào cuối thế kỷ 21 khi mà đến 40% diện tích ĐBSCL bị ngập, cùng với đó là một số khu vực đồng bằng ven biển và ĐBSH. Những ảnh hưởng của BĐKH đối với các ngành, lĩnh vực, nhất là sản xuất nông nghiệp đang báo hiệu một thách thức lớn cho Việt Nam. Trước thực trạng của ảnh hưởng BĐKH xét trong bối cảnh mới cần có những giải pháp phù hợp từ thể chế đến các ngành, lĩnh vực, từng địa phương và từng vùng. Dự báo những ảnh hưởng của BĐKH, nhất là xây dựng kịch bản cho những năm tới đến cuối thế kỷ 21 có ý nghĩa hết sức quan trọng, để đảm bảo tính hiệu quả, chính xác cần mở rộng quan hệ quốc tế và tận dụng nguồn lực bên ngoài, nhất là KHCN thế hệ mới, con người và tài chính./.

PGS.TS.Nguyễn Thế Chinh.

Viện Chiến lược Chính sách tài nguyên và môi trường.

Ủy viên Hội đồng lý luận trung ương.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Anthony E.Boardman, David H.Greenberg, Aidan R.Vining, David L.WeimerCost-Benefit Analysis, concepts and Practice. Third Edition.2006.
  2. Ban Chấp Hành Trung ương Đảng. Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2013 “về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”.
  3. Ban chấp hành trung ương. Kết luận của Bộ Chính trị: Số 56-KL/TW ngày 23 tháng 8 năm 2019 “ về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI, về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”.
  4. Dasgupta, S., Laplante, B., Meisner, C., Wheeler, D. and Yan, J., 2007: The impact of Sea Level Rise on Developing Countries: a comparative analysis, World Bank Policy Research Working Papar 4136, February 2007.
  5. Đỗ Nam Thắng: Phân tích kinh tế về tác động của biến đổi khí hậu: các trường phái học thuật và định hướng nghiên cứu ở Việt Nam

***

Chống biến đổi khí hậu: Chung tay hành động trước khi quá muộn

TS. NGUYỄN THU PHƯƠNG

TCCS - Năm 2021 là thời điểm quan trọng để tăng tốc hành động nhằm ngăn chặn những hậu quả “thảm khốc” do biến đổi khí hậu, khi mà những cam kết của các quốc gia hướng tới mục tiêu trung hòa khí thải carbon cần quyết liệt hơn sau 5 năm Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu được ký kết. Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 thể hiện tính dễ tổn thương của nhân loại trước những thách thức an ninh không biên giới, đòi hỏi sự phản ứng toàn cầu thống nhất trước khi thế giới tiến tới “điểm không thể quay đầu”.

Nỗ lực trước những thách thức

Biến đổi khí hậu luôn là thách thức lớn nhất đối với môi trường sống hiện nay cũng như tương lai của con người. Theo giới chuyên gia, tốc độ biến đổi khí hậu đang xảy ra nhanh hơn 20 - 50 lần so với bất kỳ giai đoạn biến đổi khí hậu nào trong lịch sử Trái đất. Kể từ năm 2015, nền nhiệt Trái đất đã ấm lên trung bình 1 độ C, khiến các đợt nắng nóng gây hạn hán và chết người xuất hiện với tần suất dày đặc hơn, các cơn bão nhiệt đới cũng ngày càng trở nên tàn khốc hơn. Ngày càng có nhiều nước và vùng lãnh thổ dễ bị tổn thương hơn và khả năng vượt qua yếu hơn trước tác động của biến đổi khí hậu.

Trên thực tế, thời tiết cực đoan được đánh giá là nhân tố thách thức đối với hòa bình và an ninh thế giới khi các số liệu cho thấy biến đổi khí hậu làm gia tăng 10% - 20% nguy cơ xung đột, khiến hàng nghìn người thiệt mạng, hàng trăm nghìn người mất nhà cửa, trong khi hàng triệu người rơi vào cảnh mất an ninh lương thực. Cùng với đó, hiểm họa y tế ngày càng gia tăng cả về quy mô và cấp độ khi biến đổi khí hậu khiến các dịch bệnh xuất hiện nhiều hơn.

Sự đa dạng sinh học cũng đang bị đe dọa với việc hơn 1 triệu loài đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Diện tích các hoang mạc đang mở rộng, trong khi các đầm lầy lại dần biến mất. Mỗi năm, thế giới mất đi 10 triệu héc-ta rừng. Trên các đại dương, tình trạng đánh bắt hải sản quá mức và lượng khí CO2 do rác thải nhựa hấp thụ cũng đang ở mức báo động, khiến các vùng biển bị axít hóa, trong khi đó các rạn san hô đang bị tẩy trắng và chết dần (1).

Những con số thống kê trong những năm gần đây về thiên tai càng khiến cho bức tranh thiên nhiên thêm màu ảm đạm. Năm 2019, tại châu Mỹ, ít nhất 74.155 vụ cháy rừng đã xảy ra tại Brazil chỉ trong 8 tháng đầu năm. Ở châu Á, các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, Ấn Độ, Thái Lan, Philippines... cũng đều hứng chịu các trận bão mạnh, khiến nhiều người thiệt mạng, gây thiệt hại hàng triệu USD. Châu Phi với siêu bão Kenneth san phẳng nhiều vùng ở Mozambique, lũ lụt và hạn hán ở Somalia, Cộng hòa dân chủ Congo... Ở châu Âu, nhiều nước như Pháp, Đức, Bỉ, Hà Lan... liên tục ban hành báo động đỏ vì nắng nóng có lúc lên tới 45 độ C.

Năm 2020, theo báo cáo của Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO), nồng độ khí thải gây hiệu ứng nhà kính như CO2, methane và NO2 tiếp tục tăng dù lượng khí thải đã giảm do tác động của đại dịch COVID-19. Tháng 5-2020 ghi nhận tháng nóng kỷ lục trên toàn thế giới, nhiệt độ đã tăng 0,68 độ C so với mức trung bình trong tháng 5 của giai đoạn 1981 - 2010. Năm 2020 trở thành một trong những năm nóng nhất. Lượng băng trên Bắc Băng Dương bao quanh Bắc Cực đã tan chảy xuống mức thấp thứ hai trong hơn 40 năm qua, chỉ còn bao phủ 3,74 triệu km2 (2). Bước sang năm 2021, Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) đưa ra cảnh báo lượng khí thải CO2 trong năm sẽ tăng 5% lên mức 33 tỷ tấn, nhu cầu tiêu thụ than đá sẽ tăng 4,5%, cao nhất kể từ năm 2014 (3).

Trước những thảm họa thiên nhiên do biến đổi khí hậu gây ra, trong suốt 5 năm qua, cùng với nhận thức và hành động toàn cầu về khí hậu, thế giới đã đạt được những tiến bộ dù còn rất nhỏ so với kỳ vọng. Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu đã góp phần hạn chế những tác động có thể đã xảy ra nghiêm trọng hơn do biến đổi khí hậu. Trước khi Hiệp định được thông qua, Liên hợp quốc dự báo mức nhiệt tăng trên toàn cầu từ 4 đến 6 độ C vào cuối thế kỷ XXI. Sau khi các nước tham gia Hiệp định và ký cam kết đóng góp do quốc gia tự quyết (NDC), mức nhiệt tăng được dự báo giảm xuống 3,7 độ C. Mặc dù Liên hợp quốc cho rằng đây vẫn là mức “quá nhiều”, nhưng về mặt con số cũng đã có sự cải thiện. Cùng với đó, năm 2020 đã có nhiều nền kinh tế lớn cam kết đạt mục tiêu trung hòa khí thải carbon với những mốc thời gian cụ thể.

Bước sang năm 2021, một loạt hội nghị thúc đẩy thế giới hành động vì biến đổi khí hậu - một trong những vấn đề luôn nằm trong chương trình nghị sự chính trị của các nước - đã được tổ chức trực tuyến. Tiếp nối dấu mốc quan trọng trong nỗ lực chống biến đổi khí hậu của nhân loại nhân dịp kỷ niệm 5 năm ngày ký kết Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu - Hội nghị thượng đỉnh thế giới “Tham vọng về khí hậu” (tháng 12-2020) - là các hội nghị trực tuyến, như Hội nghị thượng đỉnh Một hành tinh (tháng 1-2021), Hội nghị thượng đỉnh ba bên về khí hậu (tháng 4-2021), Hội nghị Đối thoại Khí hậu Dublin (tháng 5-2021), Hội nghị Bộ trưởng Môi trường Nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (tháng 5-2021), Hội nghị thượng đỉnh Đối tác về tăng trưởng xanh và mục tiêu toàn cầu 2030 (tháng 5-2021). Trong số các hội nghị này, đáng chú ý là Hội nghị thượng đỉnh khí hậu thế giới do Mỹ tổ chức hồi tháng 4-2021. Hội nghị đánh dấu sự tham gia trở lại Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu của nền kinh tế lớn nhất thế giới, tạo ra những xung lực mạnh mẽ cho quyết tâm của các nước phát triển trong cuộc chiến cắt giảm khí phát thải nhà kính trong thời gian tới.

Bên cạnh đó, các quốc gia tăng cường hợp tác về vấn đề biến đổi khí hậu. Tháng 1-2021, Pháp và Đức tuyên bố sẽ cùng Hãng đầu tư BlackRock thúc đẩy chương trình thu hút vốn đầu tư cho các dự án chống biến đổi khí hậu tại các quốc gia đang phát triển. Theo đó, hai nước này dự định mỗi bên sẽ đóng góp khoảng 30 triệu USD với tư cách là đối tác của chương trình (4). Tháng 4-2021, Nhật Bản và Mỹ đã nhất trí xây dựng “quan hệ đối tác về khí hậu”, thống nhất tăng cường hợp tác quốc tế.

Góp phần vào nỗ lực chống biến đổi khí hậu toàn cầu, hiện có hơn 110 nước đã đệ trình kế hoạch cắt giảm khí thải mới vào năm 2050. Một số quốc gia thậm chí đã đẩy thời hạn cam kết trung hòa khí thải carbon lên năm 2030, như Mỹ sẽ cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính từ 50% - 52% so với mức năm 2005, con số này của Liên minh châu Âu (EU) là 55% so với năm 1990, Nhật Bản cắt giảm 46% so với mức năm 2013, Hàn Quốc giảm 24,4% so với mức năm 2017,…

Giới tài chính, ngân hàng quốc tế cũng góp phần vào những nỗ lực đẩy lùi tác động của biến đổi khí hậu. Tháng 12-2020, Ngân hàng Dự trữ liên bang Mỹ (FED) chính thức gia nhập một mạng lưới toàn cầu cùng các ngân hàng trung ương khác thúc đẩy cuộc chiến chống biến đổi khí hậu và giải quyết các rủi ro môi trường đối với hệ thống tài chính. Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đã tạo ra Chỉ số chuyển đổi năng lượng để giúp các nhà hoạch định chính sách và doanh nghiệp xác định hướng đi để thực hiện thành công mục tiêu chuyển đổi năng lượng. Nhiều tập đoàn toàn cầu cũng đã tuyên bố các mục tiêu trung hòa khí carbon như Amazon, Google, Apple, Cenovus Energy, TELUS và Maple Leaf Foods,...

Các doanh nghiệp thế giới cũng hưởng ứng thông qua chiến dịch toàn cầu mang tên “Tham vọng Kinh doanh vì 1,5 độ C” (“Bussiness Ambition for 1.5 degrees Celsiu”). Nỗ lực này đã nhận được sự hưởng ứng của hàng trăm thị trưởng thành phố, thống đốc, các nhà đầu tư, các trường đại học và tổ chức xã hội trong chiến dịch toàn cầu mang tên “Chạy đua về 0” (“Race to Zero”) nhằm huy động các doanh nghiệp, chính quyền các thành phố, khu vực và các nhà đầu tư ủng hộ trung hòa carbon (5).

Chính phủ các nước ngày càng nhận thức rõ cần phải tăng cường các chính sách hướng tới mục tiêu trung hòa khí thải carbon vào năm 2030 hoặc năm 2050. Chương trình môi trường và khí hậu châu Âu (LIFE) giai đoạn 2021 - 2027 được EU thông qua, có hiệu lực từ ngày 1-1-2021, với mục tiêu góp phần chuyển đổi sang nền kinh tế sạch, tuần hoàn, hiệu quả năng lượng, carbon thấp và ứng phó với biến đổi khí hậu, nhằm bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, cũng như ngăn chặn và đẩy lùi sự mất đa dạng sinh học. Tổng ngân sách được phân bổ cho LIFE là 5,4 tỷ euro, trong đó 3,5 tỷ euro dành cho các hoạt động liên quan đến môi trường và 1,9 tỷ euro cho hành động chống biến đổi khí hậu. Chương trình cũng sẽ hỗ trợ nhiều dự án đa dạng sinh học và dành 7,5% ngân sách hằng năm của EU cho các mục tiêu này từ năm 2024 và 10% vào năm 2026 và năm 2027 (6). Ngoài ra, tháng 5-2021, Nghị viện châu Âu (EP) đã xây dựng một khung pháp lý toàn cầu để thúc đẩy công bằng khí hậu, qua đó giải quyết tình trạng bất công khi những nước và những cộng đồng gây tác động biến đổi khí hậu ít nhất lại phải gánh chịu hậu quả nặng nề nhất.

Tháng 10-2020, Chính phủ Anh tuyên bố sẽ đưa hạ tầng năng lượng tái tạo vào trọng tâm các kế hoạch phục hồi hậu khủng hoảng dịch bệnh COVID-19; cam kết thực hiện đầu tư vào năng lượng gió để đẩy nhanh tiến độ hướng tới lượng khí thải trung hòa vào năm 2050. Theo đó, khoản đầu tư trị giá 160 triệu bảng (207 triệu USD) vào các cảng, nhà máy nhằm tăng công suất năng lượng gió gấp 4 lần vào năm 2030, tương đương với một nửa tổng công suất điện của Anh (7). Tháng 5-2021, Pháp thông qua dự luật “Khí hậu và khả năng phục hồi” với mục tiêu tăng cường tư pháp bảo vệ môi trường. Nhằm khẳng định vai trò dẫn đầu trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu, Chính phủ Mỹ cũng đã công bố gói kết cấu hạ tầng và khí hậu trị giá 2.250 tỷ USD, trong đó kêu gọi đầu tư mạnh mẽ vào xe điện, hiện đại hóa lưới điện và nhiều mục tiêu quan trọng khác (8); đồng thời, ngừng cho thuê mới các khu vực khai thác dầu mỏ và khí đốt tự nhiên trên các vùng đất và vùng biển công, xem xét các giấy phép hiện hành về phát triển nhiên liệu hóa thạch. Singapore cũng đã khởi động Chương trình Đầu tư xanh trị giá 2 tỷ USD, hỗ trợ phát triển thị trường phát thải carbon, dịch vụ tư vấn phát triển bền vững và quản lý rủi ro môi trường (9).

Biến cam kết thành những hành động quyết liệt

Có thể thấy rằng, cộng đồng quốc tế ngày càng nhận thức rõ hơn tính cấp bách của vấn đề biến đổi khí hậu. Trên thế giới cũng đang dần hình thành sự thống nhất chính trị về việc cần những nỗ lực tập thể trên quy mô toàn cầu để giải quyết vấn đề này trong bối cảnh nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ vẫn đang phải hứng chịu thêm nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan do hệ quả của tình trạng biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, hành động của thế giới nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu dường như là chưa đủ, nhiều nước vẫn đặt mục tiêu ngắn hạn hơn là quan tâm tới những lợi ích dài hạn.

Các kế hoạch kích thích phục hồi kinh tế hậu dịch bệnh COVID-19 của nhiều quốc gia sẽ chứng kiến hàng trăm tỷ USD được “rót” vào các nhiên liệu gây ô nhiễm, nhất là nhiên liệu hóa thạch. Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) đã cam kết dành 233 tỷ USD cho các lĩnh vực sản xuất và tiêu dùng nhiên liệu hóa thạch, cao hơn rất nhiều so với con số 146 tỷ USD dành cho lĩnh vực sử dụng năng lượng sạch (10). Không chỉ có vậy, sự thèm khát năng lượng của thế giới tiếp tục tăng và sự gia tăng của năng lượng tái tạo vẫn chưa đủ nhanh để đáp ứng tất cả nhu cầu phát sinh. Kết quả là, sử dụng nhiên liệu hóa thạch, nhất là khí đốt tự nhiên, tiếp tục gia tăng để đáp ứng nhu cầu còn lại của thế giới. Hiện các nước đang lên kế hoạch tăng sản lượng nhiên liệu hóa thạch thêm 2%/năm trong thập niên này, hậu quả là đến năm 2030, sản xuất nhiên liệu hóa thạch sẽ tăng hơn gấp đôi, trong khi mục tiêu 1,5 độ C được Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu đưa ra đòi hỏi sản xuất nhiên liệu hóa thạch phải giảm khoảng 6%/năm từ năm 2020 đến năm 2030 (11).

Các bên tham gia Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu vẫn chưa thực hiện đầy đủ những cam kết tài chính hỗ trợ các quốc gia chịu nguy cơ cao nhất từ biến đổi khí hậu, dẫn tới sự thiếu hụt tài chính cho các hành động thích ứng. Hiệp hội Chữ thập Đỏ và Trăng lưỡi liềm Đỏ quốc tế (IFRC) ước tính, thế giới sẽ cần khoảng 50 tỷ USD mỗi năm trong một thập niên tới để giúp khoảng 50 quốc gia đang phát triển thích ứng với biến đổi khí hậu. IFRC nhấn mạnh, số tiền này đã bị thu hẹp do ngân sách dành để ứng phó với tác động kinh tế của đại dịch COVID-19 trên toàn cầu đã vượt quá 10.000 tỷ USD. Bên cạnh đó, phần lớn ngân sách dành cho ngăn ngừa và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu đã không đến được các nước đang phát triển dễ bị tổn thương nhất (12). Chưa kể, theo ước tính gần đây của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), các khoản tiền thường được sử dụng để hỗ trợ các quốc gia trong nỗ lực giảm thiểu phát thải khí nhà kính (66% kinh phí), hơn là giúp họ tự chuẩn bị càng nhanh, càng tốt trước tác động của hiện tượng nóng lên toàn cầu (25%) (13). Theo báo cáo gần đây của Trung tâm thích ứng toàn cầu, khoảng cách chênh lệch lớn đang tồn tại giữa các quỹ dành cho thích ứng khí hậu (khoảng 30 tỷ USD mỗi năm) và nhu cầu thực tế của các nước đang phát triển (300 tỷ USD mỗi năm).

Nhằm giải quyết những nguy cơ mà cuộc khủng hoảng khí hậu gây ra đối với an ninh và hòa bình, nhất là đối với sự sinh tồn của con người và sự phát triển tiến bộ của thế giới, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres đã đặc biệt nhấn mạnh 4 lĩnh vực ưu tiên của cộng đồng quốc tế, đó là: 1- Cần tập trung hơn nữa vào công tác phòng ngừa thiên tai thông qua hành động khí hậu tham vọng và mạnh mẽ. Theo đó, hướng tới thành lập liên minh toàn cầu thực sự để đạt được mục tiêu trung hòa khí thải carbon vào giữa thế kỷ XXI; 2- Cần hành động khẩn trương để bảo vệ các quốc gia, cộng đồng và người dân trước những tác động tiêu cực của khí hậu đang ngày một gia tăng và nghiêm trọng hơn. Cộng đồng quốc tế cần có sự đột phá về khả năng thích ứng và phục hồi, điều đó đồng nghĩa cần nâng mức đầu tư hơn nữa vào các biện pháp cho vấn đề này; 3- Cần kiên trì theo đuổi quan điểm an ninh đặt con người làm trung tâm. Những thiệt hại do đại dịch COVID-19, biến đổi khí hậu gây ra cho thấy sự tàn phá khốc liệt của các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đối với an ninh con người trên quy mô toàn cầu; 4- Cần thúc đẩy và tăng cường hơn nữa các mối quan hệ đối tác quốc tế, ngoài Liên hợp quốc, trong hợp tác chống biến đổi khí hậu (14). Bên cạnh đó là 6 hành động bảo vệ môi trường, bao gồm: Đầu tư vào việc làm bền vững; bảo đảm không có thêm gói cứu trợ tài chính cho các đối tượng gây ô nhiễm; chuyển từ đánh thuế thu nhập đối với người nộp thuế sang đánh thuế khí thải carbon đối với đối tượng gây ô nhiễm môi trường; chấm dứt trợ giá cho nhiên liệu hóa thạch, nhất là than đá; cân nhắc mọi nguy cơ đối với khí hậu khi ra quyết định và công bố những rủi ro tài chính liên quan tới biến đổi khí hậu; hợp tác vì mục tiêu chung là không bỏ lại ai ở phía sau (15).

Như vậy, chính phủ các nước cần tiếp tục những nỗ lực cần thiết:

Một là, tăng cường năng lực quản lý và lãnh đạo trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Theo đó, chính phủ các nước cần lồng ghép mục tiêu trung hòa khí thải carbon vào các chính sách và quyết định phát triển để có thể thực sự chuyển đổi sản xuất sạch, xanh trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, vận tải và năng lượng...

Hai là, thúc đẩy những hành động toàn cầu mạnh mẽ và quyết liệt hơn, những cam kết cần đi cùng với các biện pháp cụ thể và công cụ đa dạng. Các nước phát triển cần tiếp tục tiên phong thực hiện cam kết về giảm phát thải, đồng thời hỗ trợ về tài chính, công nghệ và thể chế cho các nước đang phát triển và các nước bị ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu. Các nước đang phát triển cũng cần tham gia để vượt qua thách thức của cuộc khủng hoảng biến đổi khí hậu.

Ba là, xây dựng kế hoạch phục hồi kinh tế sau đại dịch COVID-19 hướng đến đa dạng hóa nền kinh tế, phục hồi xanh, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Các dự án “xanh” cần được thúc đẩy mạnh mẽ nhằm tăng cường năng lượng tái tạo, tạo ra nhiều việc làm, mang lại lợi nhuận ngắn hạn cao hơn và tăng tiết kiệm chi phí dài hạn. Theo đó, các nước công nghiệp cần tập trung ủng hộ các dự án “kết cấu hạ tầng sạch”, như các trang trại năng lượng gió và mặt trời, nâng cấp lưới điện, tăng cường sử dụng hydrogen,... Đối với các nước thu nhập thấp và trung bình, người nông dân cần được hỗ trợ đầu tư vào các mô hình nông nghiệp thân thiện với môi trường...

Bốn là, các nước cần tăng cường năng lực phân tích, đánh giá các nguy cơ an ninh tiềm tàng do tình trạng biến đổi khí hậu cùng với các nguy cơ xung đột về kinh tế, xã hội, xung đột giữa các cộng đồng dân cư; thiết lập cơ chế an ninh khí hậu nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu từ nhiều chiều; tăng cường hòa giải các xung đột liên quan đến khí hậu và phối hợp chặt chẽ với cộng đồng dân cư địa phương trong kiến tạo hòa bình.

Năm là, đối với trách nhiệm thường trực của Liên hợp quốc - tổ chức đa phương chủ chốt trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu - cần tăng cường nhận thức về các nguy cơ do biến đổi khí hậu trong các phái bộ của tổ chức. Đưa vấn đề thích ứng và giảm thiểu tác động của tình trạng biến đổi khí hậu vào các kế hoạch, chiến lược ngăn ngừa xung đột, xây dựng hòa bình và có biện pháp giảm thiểu lượng khí phát thải gây hiệu ứng nhà kính từ hoạt động của các cơ quan Liên hợp quốc và các phái bộ. Tăng cường cơ chế thông tin cho Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc về mối liên hệ giữa biến đổi khí hậu và an ninh. Tăng cường sự chuẩn bị sẵn sàng của Liên hợp quốc ứng phó với nguy cơ biến đổi khí hậu, cũng như hỗ trợ năng lực cho các nước dễ bị tổn thương.

Là một trong những quốc gia chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu, thời gian qua, việc quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu được Chính phủ Việt Nam xác định là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn, quyết định đến sự phát triển bền vững. Theo đó, Việt Nam tích cực tham gia vào các nỗ lực chung chống biến đổi khí hậu của cộng đồng quốc tế nhằm biến “thách thức” do biến đổi khí hậu thành “cơ hội” phát triển bền vững cho tất cả mọi người, không để ai bị bỏ lại phía sau. Việt Nam chủ động lồng ghép các nội dung ứng phó biến đổi khí hậu vào các văn bản pháp luật chính thức. Đây là một trong những cơ sở, tiền đề quan trọng cho việc hoạch định đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và an sinh xã hội. Mới đây, một số chính sách về ứng phó với biến đổi khí hậu tiếp tục được ban hành, như Quyết định số 1055/QĐ-TTg, ngày 20-7-2020, của Thủ tướng Chính phủ “Về việc ban hành Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050”; Quyết định số 438/QĐ-TTg, ngày 25-3-2021, của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt Đề án “Phát triển các đô thị Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021 - 2030””,... Trong thời gian tới, nhằm quyết tâm thực hiện “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch bệnh COVID-19 hiệu quả, vừa phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững, Đại hội XIII của Đảng xác định: Việt Nam cần “chủ động giám sát, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu; phát triển kinh tế xanh, cácbon thấp… Nâng cao tính chống chịu và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu của hệ thống kết cấu hạ tầng và của nền kinh tế… Đến năm 2030, cơ bản đạt các mục tiêu phát triển bền vững về tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu” (16). Đây cũng là những hành động thiết thực, đóng góp tích cực của Việt Nam trong cuộc chiến bảo vệ Trái đất.

Theo các chuyên gia, quỹ phát thải carbon - lượng khí thải mà các quốc gia còn có thể thải ra đến khi thế giới đạt mức nhiệt tăng 2 độ C - chỉ còn kéo dài đến năm 2028. Các quốc gia phải đưa ra được những kế hoạch phi carbon hóa nền kinh tế một cách nhanh chóng, đặc biệt sau đại dịch COVID-19, để có thể nới rộng thêm quãng thời gian này. Vì vậy, đây là thời điểm thế giới cần đồng sức, chung tay hành động mạnh mẽ vì sự phục hồi xanh và phát triển bền vững./.

-------------------------

(1) Lê Thanh Hương: “Liên hợp quốc kêu gọi hành động quyết liệt”, Thông tấn xã Việt Nam, ngày 3-12-2020
(2) Hà Thị Phương Oanh: “Lượng băng bao phủ ở Bắc Băng Dương giảm xuống gần mức kỷ lục trong hơn 4 thập kỷ”, Thông tấn xã Việt Nam, ngày 28-10-2020
(3) Thanh Hương: “IEA cảnh báo lượng khí CO2 tăng mạnh trở lại trong năm 2021”, Thông tấn xã Việt Nam, ngày 21-4-2021
(4) Lê Ánh: “Pháp và Đức tham gia chương trình thu hút đầu tư vì khí hậu”, Thông tấn xã Việt Nam, ngày 22-1-2021
(5) Ngô Minh Châu: “Liên hợp quốc kêu gọi hướng tới tương lai không có phát thải ròng”, Thông tấn xã Việt Nam, ngày 9-12-2020
(6) Đoàn Mạnh Hùng: “EP thông qua thỏa thuận đầu tư về khí hậu và môi trường châu Âu”, Thông tấn xã Việt Nam, ngày 30-4-2021
(7) Đặng Ánh: “Anh và Đan Mạch công bố các kế hoạch tham vọng về khí hậu”, Thông tấn xã Việt Nam, ngày 6-10-2021
(8) Ngô Minh Châu: “Mỹ cam kết đi đầu trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu”, Thông tấn xã Việt Nam, ngày 20-4-2021
(9) Phan Nguyễn Thùy Anh: “Singapore thúc đẩy các mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu”, Thông tấn xã Việt Nam, ngày 24-4-2021
(10) Bích Liên: “Liên hợp quốc cảnh báo về hoạt động sản xuất nhiên liệu hóa thạch”, Thông tấn xã Việt Nam, ngày 3-12-2020
(11) Lê Ánh: “Cơ hội cho khí hậu Trái đất”, Thông tấn xã Việt Nam, ngày 12-12-2020
(12) Phan Anh: “IFRC kêu gọi hành động khẩn cấp chống biến đổi khí hậu ngang chống đại dịch COVID-19”, Thông tấn xã Việt Nam, ngày 17-11-2020
(13) Lê Thị Ngọc Ánh: “Tăng tốc hành động để thích ứng với biến đổi khí hậu”, Thông tấn xã Việt Nam, ngày 27-1-2021
(14) Hà Thị Phương Oanh: “Tổng Thư ký Liên hợp quốc nêu bật 4 lĩnh vực ưu tiên nhằm giải quyết khủng hoảng khí hậu”, Thông tấn xã Việt Nam, ngày 24-2-2021
(15) Ngô Minh Châu: “Liên hợp quốc kêu gọi hướng tới tương lai không có phát thải ròng”, Thông tấn xã Việt Nam, ngày 9-12-2020
(16) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 275 - 276

***

Biến đổi khí hậu là thách thức lớn nhất đối với nông dân khu vực Đông Nam Á

Hơn 68% số nông dân tại khu vực Đông Nam Á được khảo sát, cho biết tác động của biến đổi khí hậu (lũ lụt, hạn hán) là một thách thức đáng quan tâm. Riêng số lượng nông dân từ Philippines và Việt Nam quan tâm đến biến đổi khí hậu lại đặc biệt cao, với tỉ lệ lần lượt là 77% và 70%...

Nông dân Đông Nam Á đối mặt với ngày càng nhiều những thách thức

Nông dân Đông Nam Á đối mặt với ngày càng nhiều những thách thức

CropLife Châu Á (Hiệp hội Khoa học cây trồng châu Á) vừa công bố một nghiên cứu, cho thấy các tác động của biến đổi khí hậu là thách thức lớn nhất đối với sản xuất lương thực tại khu vực Đông Nam Á với 68,5% nông dân được hỏi đều lựa chọn đây là lý do khiến họ lo ngại nhất.

Thông tin này là một phần kết quả của dự án “Nghiên cứu về tính bền vững và khả năng phục hồi của nông dân khu vực ASEAN năm 2021”, được thực hiện trong quý đầu năm 2021 bởi Kynetec – một công ty nghiên cứu thị trường nông nghiệp và sức khỏe động vật hàng đầu trong khu vực.

Nghiên cứu đã thực hiện khảo sát với 525 nông dân trồng ngô, lúa gạo, trái cây và rau quả tại 4 quốc gia sản xuất lương thực lớn nhất khu vực ASEAN bao gồm: Indonesia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam. Kết quả khảo sát cho thấy nông dân trồng trọt ở 4 quốc gia này ngày càng bị ảnh hưởng bởi tác động của biến đổi khí hậu.

“Nông dân trên khắp Đông Nam Á đang phải đối mặt với ngày càng nhiều những thách thức nghiêm trọng, những thách thức này đe dọa đến sinh kế của họ, khả năng phục hồi của chuỗi cung ứng và tính bền vững của nguồn cung thực phẩm an toàn, bổ dưỡng mà tất cả chúng ta đều đang phụ thuộc”, TS Tan Siang Hee, Giám đốc Điều hành của Hiệp hội CropLife Châu Á nhận định.

TS Tan Siang Hee cho biết nông dân sản xuất nhỏ của Đông Nam Á đang phải chịu áp lực to lớn để đối phó với hạn hán, lũ lụt và thời tiết thất thường xảy ra ngày càng phổ biến do biến đổi khí hậu tiếp tục gia tăng.

Trong khi hơn 68% số nông dân được khảo sát cho rằng tác động của biến đổi khí hậu (lũ lụt, hạn hán) là một thách thức đáng quan tâm, thì số lượng nông dân từ Philippines và Việt Nam quan tâm đến biến đổi khí hậu lại đặc biệt cao, với tỉ lệ lần lượt là 77% và 70%.

TS Tan Siang Hee cho rằng, những sáng kiến và công nghệ tiên tiến của ngành khoa học thực vật đang và sẽ tiếp tục hỗ trợ nông dân tăng khả năng chống chịu và duy trì sản xuất nhiều thực phẩm an toàn, lành mạnh hơn trong khi giảm bớt những tác động tiêu cực lên môi trường sống xung quanh.

Cây trồng công nghệ sinh học được tạo ra với các tính trạng cải tiến giúp gia tăng năng suất, khả năng chống chịu sâu bệnh tốt hơn và cải thiện mức dinh dưỡng so với các loại cây trồng thông thường khác, và tạo điều kiện cho việc hấp thụ cacbon trong đất khi có thể thực hành phương pháp canh tác không cày xới.

Đây là công cụ quan trọng giúp nông dân giải quyết các thách thức toàn cầu như mất an ninh lương thực và biến đổi khí hậu.

Cùng với đó, việc sử dụng các sản phẩm thuốc bảo vệ thực vật tiên tiến cũng giúp sản xuất nhiều thực phẩm hơn trên một diện tích ít hơn với sản lượng mỗi ha cây trồng cao hơn.

Nếu không có các sản phẩm bảo vệ thực vật, 40% sản lượng lúa và ngô thu hoạch hàng năm trên toàn cầu sẽ bị mất đi, sản lượng hoa quả và rau củ mất đi có thể lên tới 50-90%. Những thiệt hại về sản lượng này có thể đồng nghĩa với việc cần phải giải phóng thêm đất cho nông nghiệp, dẫn đến tăng lượng khí thải carbon.

Các phát hiện khác trong Nghiên cứu về khả năng phục hồi và bền vững của nông dân khu vực ASEAN năm 2021 dự kiến sẽ tiếp tục được công bố trong thời gian tới.

***

Chống biến đổi khí hậu sẽ giúp Đông Nam Á tạo ra 12.500 tỷ USD

Các nước Đông Nam Á cần phải khẩn trương hành động để ngăn chặn những hủy hoại không thể xoay chuyển do biến đổi khí hậu trong 10 năm tới.

Chong bien doi khi hau se giup Dong Nam A tao ra 12.500 ty USD hinh anh 1

Cảnh ngập lụt sau những trận mưa lớn tại Bekasi, Tây Java, Indonesia. (Ảnh: AFP/TTXVN)

Viện nghiên cứu kinh tế Deloitte vừa công bố báo cáo “Bước ngoặc Đông Nam Á," trong đó tập trung nghiên cứu cách thức kiềm chế sự nóng lên toàn cầu, khai thác cơ hội khử carbon để xuất khẩu, tranh thủ thu được giá trị kinh tế khổng lồ của khu vực Đông Nam Á.

Theo Deloitte, nếu các nước Đông Nam Á bắt đầu áp dụng các hành động để kiểm soát biến đổi khí hậu ngay từ bây giờ sẽ có tiềm năng tạo ra giá trị kinh tế 12.500 tỷ USD trong 50 năm tới, ngược lại có thể gây nên tổn thất 28.000 tỷ USD.

Giám đốc điều hành Deloitte Philip Yuen nhấn mạnh các nước Đông Nam Á cần phải khẩn trương hành động để ngăn chặn những hủy hoại không thể xoay chuyển do biến đổi khí hậu trong 10 năm tới.

Mặc dù các nền kinh tế Đông Nam Á đã đưa ra cam kết mạnh mẽ đối với vấn đề này, nhưng do môi trường địa lý và kinh tế đặc thù của các nước, sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia vẫn đang ở trong những giai đoạn khác nhau. Muốn thay đổi quỹ đạo này, Đông Nam Á cần phải nắm chắc cơ hội, áp dụng các chương trình hành động khí hậu, chuyển từ chú trọng vào chi phí trước đây sang tập trung vào tăng trưởng và thành tựu kinh tế.

Theo nghiên cứu khoa học, nếu các nước không hành động, đến cuối thế kỷ này, nhiệt độ trung bình toàn cầu sẽ có thể tăng từ 3 độ C trở lên. Mực nước biển tăng, sản lượng lương thực giảm, cơ sở hạ tầng bị hủy hoại và các thách thức khác sẽ khiến cho môi trường sinh tồn và làm việc của nhân loại càng trở nên khó khăn hơn.

Báo cáo cũng so sánh thiệt hại do động đất gây nên với tác động của biến đổi khí hậu. Nếu các nước Đông Nam Á không hành động để kiểm soát biến đổi khí hậu, thiệt hại kinh tế sẽ tương đương với việc xảy ra một trận động đất nghiêm trọng theo chu kỳ chín tháng/lần từ nay đến năm 2070.

Ngược lại, nếu chính phủ, doanh nghiệp và cộng đồng thực hiện những hành động quyết liệt trong 10 năm tới, điều này sẽ giúp hạn chế mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu dưới 1,5 độ C vào năm 2050, giảm tối đa tác động của biến đổi khí hậu ở Đông Nam Á và các khu vực khác trên thế giới.

Báo cáo đã đề xuất bốn giai đoạn phát triển quan trọng về cách thức ứng phó biến đổi khí hậu của Đông Nam Á trong 50 năm tới.

Đầu tiên, từ nay đến năm 2030, chính phủ và doanh nghiệp các nước cần phải đưa ra quyết sách quan trọng, ban hành và mở rộng sách lược môi trường của mình, bắt đầu khử carbon.

Trong giai đoạn 2030-2040, Đông Nam Á và các nước trên thế giới phải hoàn thành các dự án lớn và bắt tay hợp tác, thay đổi phương thức sản xuất và tiêu thụ năng lượng. Giai đoạn 2040-2050 sẽ là bước ngoặc then chốt, toàn cầu phải nỗ lực tránh nhiệt độ tăng quá 3 độ C.

Sau năm 2050, các nền kinh tế Đông Nam Á sẽ chuyển đổi triệt để, trở thành các nền kinh tế không phát thải, đồng thời tiếp tục phát triển./.

Thạch Bình (TTXVN/Vietnam+)

Luật sư tư vấn miễn phí

Gọi ngay
0902818158- 0906834543
0906834543
0902818158

Tin pháp luật

CÁC ĐỐI TÁC

  • Nhà Đất Phúc An Khang
  • The Diplomat
  • The NewYork Review of Book
  • CogitAsia
  • Reuters
  • Viet Studies
  • The NewYork Times
  • TIME
  • Bloomberg Bussiness