TIN TỨC

fanpage

Thống kê truy cập

  • Online: 5
  • Hôm nay:
  • Tháng:
  • Tổng truy cập:
Chi tiết bài viết

Hiện trạng kinh tế Việt Nam trước ngưỡng cửa hội nhập quốc tế

Hội nhập kinh tế quốc tế với những hiệp định EVFTA, TPP và sự hình thành của khối AEC mở cho Việt nam những cơ hội phát triển hy hữu, nhưng nắm bắt những cơ hội này là đầy thách thức ( Xin xem bài “Hội nhập quốc tế, cơ hội và thách thức”). Câu hỏi đặt ra là liệu nền kinh tế quốc gia có đủ khả năng vượt qua những thách thức và nắm bắt những cơ hội trên?

Muốn trả lời câu hỏi này ta nên nhận thức tình hình kinh tế hiện nay ở nước nhà. Và muốn đánh giá kinh tế Việt Nam, thực tiễn nhất, ta nên nhìn lại diễn biến của nền kinh tế trong 10 năm qua

Diễn biến của nền kinh tế trong thập niên vừa qua

Diễn biến kinh tế, từ hồi đổi mới 1986 có thể chia ra làm nhiều giai đoạn.

Thời kỳ 1986-2006 được cho là giai đoạn kinh tế chuyển tiếp, trong giai đoạn này, vì đi từ một thời kỳ cực nghèo khổ nên tăng trưởng kinh tế đặt những tốc độ kỷ lục và Việt nam được gọi là “con Hổ mới Thái bình Dương”, con Hổ này đã vượt qua được dễ dàng Khủng Hoàng châu Á Thái Bình dương của năm 98-99, tăng trưởng GDP có hạ đôi chút nhưng để rồi lên lại mức 8%/năm, đó là vì kinh tế Việt Nam còn khá biệt lập với thị trường quốc tế

 

gdp

 

Năm 2006, được coi là năm bản lề, kinh tế VN tiến vào một giai đoạn mới và giai đoạn này kéo dài cho đến ngày nay .Vậy cái gì đã xảy ra trong năm 2006?

Những biển đổi trong năm 2006 – 2007

Mọi người đều nhớ thời kỳ 2006-2007 là thời kỳ thị trường chứng khoán bùng nổ, từ 200, 300 điểm nhảy vọt lên 1000 điểm, nhà đầu tư trong một năm thấy tài sản của mình nhân 3, mức tăng quá hấp dẫn thu hút rất nhiều người, sàn giao dịch mọc ra như nấm, ở sảnh ngân hàng nào cũng treo bảng thông tin chứng khoán trực tiếp. Mức giá này thu hút cả các nhà đầu tư nước ngoài mặc dù nhìn chỉ số giá cổ phiếu trên lợi nhuận (P/E) đạt mức 50, 60 của các công ty niêm yết (bình thường chỉ là 10, 12 lần) thấy có gì bất bình thường.

Chứng khoán lên, kéo theo luôn giá nhà đất và vực dậy thị trường bất động sản (BĐS), Trước đó trong giai đoạn 2000-2003 BĐS lên cơn sốt nặng và đã hạ nhiệt tới mức đóng băng.

2006, cũng là năm Nhà nước hoàn tất cổ phần hoá một số DNNN. Nhà nước đã bắt đầu chương trình cổ phần hoá từ đầu 2000 bằng một vài thí điểm nhỏ, rồi sau đó 2004-2006 là giai đoạn ‘cổ phần hoá ồ ạt’, hơn 3000 doanh nghiệp được cổ phần hoá. Trên nguyên tắc, một số cổ phần đươc chia bán cho nhân viên, trên thực tế thì các ông chủ gom mua lại hết với giá bèo, đợi lúc doanh nghiệp lên sàn, bán lại hoặc lấy cổ phần thế chấp vay ngân hàng làm áp phe.

vn index

Năm 2006 cũng là Năm Chính phủ thành lập các Tập đoàn quốc doanh. Mục đích của Nhà Nước là VN phải có những tập đoàn theo mô hình những Cheabols của Đại Hàn, và những tập đoàn này sẽ là những đầu tàu kéo đi lên nền kinh tế quốc gia. 13 tập đoàn đã được thành lập, gồm có Tập đoàn Bưu chính viễn thông (VNPT), Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin), Tập đoàn Tài chính-Bảo hiểm Bảo Việt (Bảo Việt), Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex), Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG), Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin), Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PetroVietnam), Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel), Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex), Tập đoàn Công nghiệp Hoá chất Việt Nam (Vinachem);Tập đoàn phát triển nhà và đô thị Việt Nam (HUD Holdings), Tập đoàn Công nghiệp Xây dựng Việt Nam (VNIC). Song, hai tập đoàn HUD và VNIC đã bị tháo gỡ trong năm 2012.
Những tập đoàn trên hưởng quyền lợi đặc biệt, vốn là do nhà nước cấp, vay trong nước thông qua những ngân hàng quốc doanh, vay nước ngoài, được Chính phủ bảo lãnh. Tập đoàn là cánh tay dài của chính phủ trên thị trường vì vậy họ có quy chế đặc biệt trên thị trường, trong vài trường hợp có thể đi đến độc quyền hay quyền định giá thị trường. Theo định nghĩa tập đoàn tập hợp nhiều cty đa ngành nghề nên các tập đoàn tha hồ đầu tư ngoại ngành, không một tập đoàn nào mà không đổ tiền vào ngân hàng, công ty chứng khoán, bất động sản… mặc dù không liên quan gì đến kinh doanh ngành chính của tập đoàn và những năm vừa qua bị thua lỗ nặng. Cuối cùng những tập đoàn trên không phải là những đầu tàu cho kinh tế quốc gia mà ngược lại là những gánh nặng vì sự hạn chế trong kỹ năng quản lý và vì những thất thoát vì quyền lợi riêng tư.

Năm 2006, 12 ngân hàng nông thôn được chuyển thành Ngân hàng đô thị, nghĩa là được phép hoạt động trên toàn lãnh thổ Việt nam.Phải nói ngành NH trong thời điểm bấy giờ là ngành ‘hot’ nhất, tổng tài sản Ngân hàng, tăng bình quân 50, 60%/năm (kỷ lục hơn 100%/năm), Lợi nhuận trên vốn (ROE) đạt bình quân trên 35%. Không những ngân hàng là ngành sinh lời mà ngành này còn là phương tiện cho các đại gia lấy tiền tiết kiệm của dân để đầu cơ (may ra thực sự đầu tư) cho chính mình.

Năm 2007 , vì sự hấp dẫn của thị trường chứng khoán và bất động sản VN, vì sự bất ổn chính trị của những quốc gia trong vùng và vì VN gia nhập WTO nên vốn nước ngoài đổ xô vào VN.

Với những sự kiện kể trên, thị trường Việt Nam hoàn toàn sôi sục, nóng bỏng, nhà nhà, người người mở hầu bao tiết kiệm hay đi vay đi mượn để chạy ‘áp phe’, mở đầu cho một giai đoạn mới trong lịch sử kinh tế Việt Nam, giai đoạn của sự bất ổn định, giai đoạn Việt Nam rời vùng kinh tế thực để đi vào vùng kinh tế ảo.

Vòng xoáy kinh tế ảo

Một hiện tượng rất quan trọng trong nền kinh tế VN mà ít người đề cập đến, đó là hiện tượng ‘kinh tế ảo’, ảo ở chỗ kinh tế không tạo ra giá trị thực mà chỉ dựa vào biến động của mức giá thị trường để sinh lời, đó là căn bản của đầu cơ. Xin lấy một thí dụ: anh mua một căn hộ 1 tỷ VND, năm sau anh bán lại nguyên xi cái nhà đó đươc 1,6 tỷ, anh hoàn toàn không tạo ra một giá trị nào thêm cho xã hội nhưng tài sản của anh tăng 600 triệu. Đó là cái vốn ảo, nếu ảo vẫn nằm trong ảo thì ta hoàn toàn trong thế giới trò chơi ảo ‘Second life’, nhưng sức mua ảo sẽ trở thành sức mua thực khi ta dùng nó để mua sản phẩm, dịch vụ thực và chi phối nền kinh tế thực. Với 600 triệu anh chàng, ở trên, mua một chiếc xe nhập từ nước ngoài. Để có ngoại tệ nhập chiếc xe, ta đã phải xuất khẩu gạo ra nước ngoài, tiền ảo đã tác động trên nông nghiệp ‘thực’!

Giai đoạn từ 2006 là giai đoạn đầu cơ bành trướng rất mạnh, xin tạm gọi là ‘vòng xoáy kinh tế ảo’ vì biên độ tăng theo hàm số mũ. Nhưng tại sao lại là vòng xoáy?

 

kinh tế ảo

 Tất cả bắt đầu từ sự liên kết giữa Quyền lực, tư bản và ngân hàng, “tư bản” lúc ban đầu chỉ là ‘dân chạy áp phe’ không có đồng xu dính túi, tất cả dựa vào tiền ngân hàng, trong những vòng sau, tư bản cũng bỏ một chút vốn, nhưng vốn này sẽ được nhân ba, nhân mười nhờ ngân hàng, tiền tiết kiệm của người dân cũng từ đó chạy vào kinh tế ảo

Quyền lực ở đây sẽ tác động trên ba lãnh vực, BĐS, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và đầu tư công, từ đó sinh lời tiền lời sẽ đổ vào 4 lãnh vực đầu cơ là BĐS, Chứng khoán, vàng và đồng Đô, tiền lời ảo sẽ đẻ ra những dự án khác và chu trình lại tiếp tục.

Khi đã vào vòng xoáy rồi thì tâm lý rất khó thoát ra, ngay khi thị trường không thuận lợi, vốn sẽ được ‘trùm chăn’ đợi thời cơ khác, hoặc thổi ‘bong bóng’ tạo giá để trục lợi tiếp.

Vì vậy đầu cơ đã thành một mảng kinh tế quan trọng, thâu hút phần lớn nguồn lực, tiết kiệm quốc gia và một phần vốn nước ngoài cũng đổ vào kinh tế ảo. Doanh nghiệp sản xuất cũng bỏ nghề chính của mình để đổ vốn vào đầu cơ. Kinh tế ảo đã đưa dến sự bất ổn và suy thoái của nền kinh tế.

2007, kinh tế VN đi vào tình thế bất ổn

Chính sách tiền tệ nới lỏng

2007, vốn đầu cơ tăng mạnh, tiền nước ngoài đổ vào Việt nam, và vì tất cả được nhân lên với tác động của ngân hàng. Trong năm đó, tín dụng ngân hàng tăng 54% và Cung tiền M2 (lượng tiền đang lưu thông bao gồm tiền măt, tiền gửi ngân hảng, kể cả tiết kiệm) tăng 47%.

 

cán cân tài chính

Khi nguồn tiền tăng mà nguồn cung không tăng, tất nhiên giá cả được điều chỉnh đi lên, lạm phát 2007 lên đến mức 20%.

Khi lạm phát tăng thì lãi suất ngân hàng cũng tăng theo. Lãi cho vay chính thức là 21%, trên thực tế, trong thời kỳ đó muốn được vay, phải chi 25% (chưa kể tiền bôi trơn).

Với một mức lãi như vậy kinh doanh ‘thực’ không thể có mức lợi nhuận tương quan, vì vậy, doanh nghiệp chuyển hướng xoay ra đầu tư bất động sản với kỳ vọng bán lại sinh lời.

2008 – 211, chính sách tiền tệ thắt - mở, để rồi lại thắt

Trước tình trạng lạm phát phi ngựa, lãi suất ngất ngưởng, 2008, Chính phủ thắt chặt lại khối tiền tệ, dùng thị trường mở (open market) để thâu về lại dòng tiền và hạn chế tăng trưởng tín dụng ngân hàng. Biện pháp này hạ nhiệt thị trường và lạm phát bắt đầu đi xuống.

cpi


Chính sách này chưa được áp dụng bao lâu thì trên thế giới, khủng hoảng tài chính, kinh tế, bùng nổ. Vì sợ ảnh hưởng lớn đến kinh tế Việt nam, 2009, chính phủ mở lại van tiền tệ và đưa vào gói kích cầu 8 tỷ USD. Tác động trên thị trường, thấy rõ, lạm phát quay đầu đi lên và trở về mức 18% trong năm 2011.

Gói kích cầu đã không đạt được mục tiêu, thay vì kích cầu để vực dậy lãnh vực sản xuất thì tiền kích cầu lại bị bẻ ngoặt vào thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, thị trường vàng với lãi suất ưu đãi. Được Chính phủ hỗ trợ, kinh tế ‘ảo’ nóng trở lại, trong khi kinh tế ‘thực’ vẫn nguội tanh vì thị trường thế giới còn trên cơn khủng hoảng và doanh nghiệp sản xuất không kiếm ra được ngay cả vốn lưu động để duy trì kinh doanh.

Và năm 2011, vì có qua nhiều chỉ trích, vì Đại hội đảng sắp tới nên chính phủ lấy những biện pháp mạnh, đóng chặt lại van tiền tệ, hạn chế tăng trưởng tín dụng và đáng chú ý nhất, cấm ngân hàng cho vay những ngành nghề phi sản xuất, đặc biệt là bất động sản.
Biện pháp này hoàn toàn đóng băng thị trường bất động sản, hơn thế nữa các dự án xây cất nửa chừng dừng lại hết, xây xong rồi thì không có người mua. Những khoản vay trước không được chi trả, nợ xấu ngân hàng chồng chất và gia tăng khủng khiếp tới mức 19% tổng dư nợ (tiết lộ của thủ tướng trước quốc hội, 4 năm về sau).

Suy thoái kinh tế 2012 – ngày nay (?)

Từ BĐS đóng băng, từ ngân hàng khủng hoảng vì nợ xấu, hiệu ứng chuỗi theo kiểu cờ Đôminô đi rất nhanh và lan rộng ra khắp nền kinh tế.

Tâm lý người tiêu thụ, trước những khó khăn của nền kinh tế là hạn chế, giảm chi tiêu, nguồn cầu gần như không còn. Các cửa hàng thi nhau giảm giá, khuyến mại, nhưng cũng chẳng ai mua.

Xuất khẩu cũng gặp khó khăn (trừ những doanh nghiệp vốn nước ngoài, lắp ráp ở VN để tái xuất khẩu) vì:
- khủng hoảng kinh tế thế giới
- giá nguyên vật liệu thi nhau đi xuống
- mặt hàng VN đắt so với các đối thủ cạnh tranh, vì tỷ giá VND gắn liền với USD và tỷ giá USD tăng mạnh so với các đồng tiền khác.

Hàng tồn kho chất đống, nào là hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, vật liệu xây dựng và ngay cả những khu nhà bỏ hoang, khu đô thị mới không người ở...

Khi hàng tồn kho phơi sương, thì ngân hàng ngụp lặn trong nợ xấu và phản ứng tự nhiên là không cho DN vay tiền nữa. DN ở cái thế hàng thì bán không được, vay tiền nhà băng để thanh toán chi tiêu thường xuyên, trả lương cho người lao động cũng không được, vậy chỉ có nước đóng cửa. 
Trong những năm vừa rồi, doanh nghiệp giải thể hàng loạt, 2012 : 50.000 ; 2013 : 60.000 ; 2014 : 70.000 ; 2015: 90.000 ; 2016 (4 tháng đầu năm): 15000. Gần một nửa doanh nghiệp VN đã ngưng hoạt động trong những năm vừa qua.

Tất nhiên thị trường lao động bị tác động mạnh, hiện tượng thất nghiệp tràn lan, nhất là trong giới trẻ. Hàng năm có hơn một triệu sinh viên, học sinh các cấp ra trường và được tung ra thị trường lao động và trong những năm vừa qua với số doanh nghiệp giải thể VN đã giảm, thay vì tạo thêm công ăn việc làm mới.

Chính phủ đã làm gì?

Sau những năm khủng hoảng, chính phủ đề ra chương trình tái cơ cấu nền kinh tế, dựa trên 3 trụ cột là :

- Tái cơ cấu DNNN

- Tái cơ cấu đầu tư công

- Tái cơ cấu ngân hàng và đổ 30.000 tỷ VND hỗ trợ mua nhà cho người có thu nhập thấp.

Tái cơ cấu doanh nghiệp đây có nghĩa là cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, từ một doanh nghiệp một thành viên đổi thành công ty cổ phần, trong đó chính phủ vẫn hoàn toàn giữ ít nhất lượng cổ phần chi phối. Do vậy, cổ phần hoá DNNN chỉ có tính cách hoàn toàn hình thức. Chủ nhân không thay đổi, lãnh đạo công ty vẫn ngồi đó, cách quản lý vẫn như xưa, bản chất của cuộc tái cơ cấu này là ‘bình mới rượu cũ’. Theo lộ trình, 2011-2015 phải cổ phần hoá 432 DNNN, riêng cho 2015 phải cổ phần hoá 285 DNNN còn lại. Cho đến cuối năm 2015 vẫn còn hơn 100 chưa thực hiện và cả năm 2015 chỉ cho lên sàn chứng khoán (IPO) được khoảng 70 DN

Tái cơ cấu đầu tư công là một điều cần thiết khi chỉ số ICOR (chỉ số hiệu quả đầu tư Incremental capital – output ratio) cao ngất ngưởng ở mức 6,92 (so sánh trong khu vực Indo:3,86, Phi Luật Tân . 4,0). Nhận thức điều này Chính phủ đã đề ra chính sách tái cơ cấu, nhưng đến nay chưa có một hành động cụ thể nào để cho đầu tư công hiệu quả hơn. Đầu tư công vẫn dàn trải và bỏ ra hàng ngàn tỷ xây trung tâm hành chính, xây tượng đài hoành tráng, tất cả chỉ vì tiền ‘lại quả’ cho người phê duyệt dự án rất là đáng kể.

Tái cơ cấu ngân hàng là một điểm cần thiết, vì tiền là huyết mạch của kinh tế, nhưng hiện nợ xấu ngân hàng là cục máu đông ngăn chặn lưu thông nguồn vốn. Cục máu đông này, trong năm 2012 là 19% tổng dư nợ, theo chính phủ và là khoảng 25% theo các cơ quan xếp hạng tín dụng quốc tế Fitch hay Moody (nếu tính theo cách IAS) . Trước cái sự thể này Chính Phủ đã thành lập Công ty mua bán nợ xấu VAMC. Đặc trưng của phương án là ‘mua’ lại nợ xầu không bằng tiền mà bắng giấy ‘nhận giữ nợ xấu’ ngân hàng vẫn phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trên những khoản này, sau 5 năm nếu VAMC không bán được nợ sẽ trả lại cho NH, vì vậy NH hàng năm vẫn phải trích lập quỹ dự phòng. Phương án này hoàn toàn mang tính chất kế toán, sổ sách. Ngân hàng được đưa khoản nợ xấu ra khỏi bảng cân đối nhưng không giải quyết được khó khăn tài chính hiện tại. Rút cuộc, nhiều ngân hàng mất hết vốn và Chính phủ phải mua lại với giá 0 đồng. Kết quả, ngành ngân hàng vẫn trong tình trạng nguy ngập và không có khả năng hỗ trợ nền kinh tế.

Chính phủ có đưa ra chính sách hỗ trợ giúp dân nghèo mua căn hộ bình dân, khổ nổi, ngành BĐS từ trước tới đến nay chỉ quan tâm đến căn hộ loại cao cấp giá từ 2000 đến 7000 đô một thước vuông, gói 30000 tỷ chỉ cho phép mua căn hộ xã hội không quá 70m2 giá dưới 670 đô/m2 (15 tr vnd). Vì vậy cung không gặp cầu và tới nay vẫn chỉ có tầm 30% được thực hiện. Những khó khăn của doanh nghiệp BĐS, không phải vì chính sách này mà được chấn chỉnh..

Có thể nói, những chính sách chính phủ đưa ra chưa mang lại những kết quả mong muốn và tác động thực sự trên nền kinh tế cũng rất mong manh.

Bức tranh chính thức 2015 và những khó khăn thực sự hiện tại

Trước thềm Đại hội Đảng, Chính phủ đưa ra một bức tranh của nền kinh tế rất khả quan

- Tăng trưởng GDP đạt 6,7%

- Lạm phát xuống mức 0,7%

- Xuất khẩu đạt 162 tỷ USD (tăng 8,1% so với năm trước)

- Nhập khẩu là 165 tỷ USD (tăng 11% so với năm trước)

- Tỷ lệ nợ xấu ngân hàng xuống còn 2,9%

Nhìn bức tranh này ta hình dung Việt nam đã hoàn toàn thoát khỏi thời kỳ suy thoái, nhưng nếu soi kỹ thì sẽ thấy :

- GDP tăng trở lại là nhờ hai yếu tố, thứ nhất là sự phát triển của doanh nghiệp FDI, đặc biệt những DN lắp ráp để tái xuất khầu ra nươc ngoài do sự dịch chuyển hoạt động từ Trung Quốc sang Việt Nam, môi trường sản xuất tại Trung Quốc không còn thuận lợi.

Yếu tố thứ nhì là sự khởi sắc của BĐS, không phải vì nhu cầu nhà ở gia tăng nhưng là vì các kênh đầu tư (cơ) khác đều xuống dốc, các đại gia không còn biết để tiền vào đâu nên đổ vào BĐS, dân Hà nội mua cả tầng những chung cư mới xây ở TPHCM, Nha Trang Đà Nẵng hay Phú Quốc.

- Lạm phát còn 0.7%, vì với suy thoái kinh tế, hiện tượng giảm phát là lẽ thường, nếu CPI ở mức 0,7% là vì giá điện, bệnh viện, trường học, do Nhà Nước quyết định đều tăng.
- Xuất khầu tăng, như đã nói ở trên, nhờ các doanh nghiệp FDI, điển hình tổng kim ngạch xuất khẩu của Samsung Việt Nam hiện vượt xa tổng kim ngạch xuất khẩu gạo. Tuy nhiên nhập khẩu tăng mạnh hơn, chi phối cán cân thanh toán quốc tế và chứng tỏ là nguồn cung trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường nội địa.
- Nợ xấu thì như đã nói ở trên, con số 2.95% là hoàn toàn con số ‘trên sổ sách’.

Bề trái của bức tranh đẹp vừa rồi là căn bản kinh tế VN vẫn còn rất khó khăn đầu tháng 4, 2016, Ngân hàng Thế Giới (WB) đã điều chỉnh, giảm dự báo tăng trưởng GDP của VN cho năm 2016 từ 6,9% xuống còn 6,2%.
Nông nghiệp VN đang gặp rất nhiều vấn đề, ngoài hạn hán và nước mặn ở đồng bằng sông Cửu Long, còn những vấn đề căn bản để cạnh tranh trên thị trường thế giới là chất lượng, là vệ sinh và là giá cả.
Doanh nghiệp vẫn không ngừng giải thể vì vốn từ ngân hàng vẫn chưa tới tay vì thị trường nội địa vẫn chưa hồi phục và xuất khẩu còn khó khăn.
Doanh nghiệp nhà nước thua lỗ vì đầu cơ ngoại ngành bị bắt thoái vốn (nếu chưa kịp làm thì cũng không còn là một kênh đầu tư hiệu quả), trong ngành, giá cả nguyên vật liệu đi xuống gây thất thoát cho những cơ xưởng đã hoạt động lâu năm cũng như những cơ xưởng mới được thành lập. Tính đến nay, 40% nợ xấu ngân hàng đến từ DNNN.
BĐS chỉ khởi sắc tạm thời, kho hàng không bán được và dự án trùm chăn vẫn chất đống.
Nợ xấu ‘gửi tạm’ VAMC cũng chỉ còn hai năm nữa, nếu không xử lý được sẽ trở về lại ngân hàng. Số ngân hàng mất vốn vì nợ xấu có thể nhiều hơn những ngân hàng mới được Chính Phủ mua lại với giá 0 đồng. Tình trạng sức khỏe của toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam, những năm qua là đáng lo ngại, nhưng thầy thuốc chỉ kê đơn uống Aspirin, giảm đau, hạ sốt!

Tình hình tài chính quốc gia cũng không được sáng sủa :
- Ngân sách bội chi từ lâu, nay đã đến mức tổng khoản thu chỉ vừa đủ chi thường xuyên và trả nợ. Nhà nước sẽ lấy tiền ở đâu ra để đầu tư, để tái cơ cấu nền kinh tế để giải quyết những sự cố quan trọng ?
- Nợ công, nếu tính theo cách của Nhà Nước Việt Nam thì còn nằm trong hạn mức 60% GDP, nhưng nếu theo tiêu chuẩn quốc tế là khoảng 115% GDP (nếu tính cả khoản nợ của các DNNN và phần bảo lãnh). Với mức, nợ công này đưa ra hai vấn đề chính, khả năng trả nợ và những khó khăn cũng như mức lãi suất đặt ra khi ta muốn mượn thêm tiền trên thị trường quốc tế.

Kinh tế Việt Nam đã sẵn sàng hội nhập quốc tế hay chưa ?

Như ta thấy ở phần trên, kinh tế Việt nam chưa thoát khỏi tình trạng suy thoái, 2015, tình hình có vẻ sáng lạn hơn một chút, nhưng những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững vẫn chưa được hội tụ. Doanh nghiệp Việt Nam, phần quốc doanh cũng như phần tư nhân còn rất èo uột và không được sự hậu thuẫn vững chắc của hệ thống ngân hàng. Như vậy doanh nghiệp Việt Nam hiện không có khả năng chiếm đoạt những thị trường mới cũng như khả năng bảo vệ thị trường quốc nội.

‘Sửa soạn là mẹ của thành công’, ta còn gần 2 năm để thay đổi, xếp đặt lại nước cờ để đối mặt với tình thế mới, phát huy vị trí của Việt Nam trên thương trường thế giới.

Nhưng ta phải thay đổi cái gì để một mặt đưa Việt Nam vào một quỹ đạo phát triển bền vững mới, mặt khác tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho sự hội nhập kinh tế quốc tế ?

 

Thay đổi cần thiết cho hội nhập kinh tế quốc tế

Trong hai bài trước, những cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế, đã được liệt kê, quá trình phát triển kinh tế trong 10 năm qua đã được phác họa. Khi nhận thức được hiện tình kinh tế, kết luận đã được đưa ra là muốn thành công trong công cuộc hội nhập quốc tế Việt Nam phải sửa soạn và thay đổi nhiều những căn bản của nền kinh tế.

Trước khi bàn tới những thay đổi phải thực hiện, để một mặt thoát khỏi tình trạng suy thoái hiện tại và mặt khác đảm bảo thành công trong công cuộc hội nhập, có lẽ nên phác họa những nét chính của nền kinh tế quốc gia sau 30 năm đổi mới

Nét chính của nền kinh tế Việt Nam

Trên phương diện cơ cấu của nền kinh tế ta có thể rút ra những nét sau đây

- Kinh tế ‘Nhà nước’

Mặc dù Nhà nước khẳng định nền kinh tế VN là một nền kinh tế thị trường, với định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng tới nay khó thấy được sự độc lập của thị trường. Nhà nước vẫn điều hành nền kinh tế như dưới thể chế kinh tế kế hoạch bằng sự can thiệp trực tiếp vào thị trường hoặc thông qua những cánh tay dài của Nhà Nước, những doanh nghiệp quốc doanh. Ngay cả đất đai, tư liệu sản xuất căn bản cũng thuộc sở hữu của Nhà nước, thị trường chỉ có thể tác động trên quyền sử dụng đất do Nhà nước ban cho, dưới sự kiểm soát giá cả của chính Nhà nước. Tư liệu sản xuất căn bản tối ưu là lao động, được đặt dưới sự điều phối Công đoàn, và Công đoàn là do Đảng chỉ đạo và Đảng là Nhà Nước. Tư liệu sản xuất căn bản thứ ba là nguồn vốn, do Nhà nước quản lý thông qua Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và bốn ngân hàng quốc doanh. Quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước to hơn nhiều so với các ngân hàng trung ương trên thế giới, NHNN có quyền ‘sinh, tử’, ‘tiền trảm hậu tấu’ đối với các ngân hàng thương mại cổ phần (trên thế giới quyền kiểm soát các ngân hàng là dưới trách nhiệm của một hội đồng độc lập), khác hơn nữa, NHNN được coi như một Bộ của Chính phủ, trong khi đó trên thế giới, ngân hàng trung ương phải độc lập, tách rời ra khỏi chính phủ và chỉ chịu trách nhiệm trước quốc hội.

- Khu vực ‘kinh tế ảo’

Người ta tự hỏi, khi Nhà nước kiểm soát chặt chẽ thị trường thì làm sao có thể đầu cơ, chơi trên biến động giá thị trường? Đó là một phần do những kẽ hở của cái gọi là ‘hệ thống kinh tế hỗn hợp’ và một phần nữa do tác động của các ‘nhóm lợi ích’. Chính những nhóm lợi ích này đã lợi dụng quyền lực để có những quyết định, những ‘tin tay trong’ (insider) giúp họ hưởng lợi trên sự biến động thị trường có khi do chính họ chủ động. Ta cũng không quên được sự thành hình của một đám đông bắt chước (suiveurs) tạo nên một phong trào và lúc đó đi ra ngoài tầm kiểm soát của Nhà nước.

Đầu cơ hiện đã trở thành nguyên một khu vực của nền kinh tế, lấn át nền kinh tế thực. Thật vậy, tài sản, vốn liếng, tiết kiệm quốc gia ngay cả vay mượn quốc tế cũng được đổ sạch vào kinh tế ảo, lấy gì để đầu tư sản xuất trong nền kinh tế thực?

- Mô hình phát triển dựa trên ‘gia công’

Từ thời bao cấp, kinh tế kiệt quệ, không còn gì để bán ra ngoài Nhà nước đã có chính sách xuất khẩu lao động qua Liên Xô, qua Đông Âu, lấy ngoại tệ dùng cho việc khác (hiện tại, 10 tỷ USD/năm kiều hối, vẫn là một nguồn vốn rất quan trọng cho Việt Nam).
Tới thời kỳ đổi mới, rập khuôn theo Trung Quốc, thay vì xuất khẩu lao động ta ‘nhập khẩu cơ xưởng’ nước ngoài và phục vụ lao động rẻ tiền cho họ sản xuất. Mô hình phát triển dựa trên gia công, rất phổ biến ở những quốc gia mới nổi, đặc biệt là bên Trung Quốc, mặc dù mô hình này đi ngược lại chủ nghĩa Mác chống lại sự bóc lột người lao động đến từ tư bản mại bản và đế quốc tư bản. Mô hình này cũng đi kèm những ‘lỏng lẻo’ về luật lệ về lao động và bảo vệ môi trường để giúp công ty nước ngoài xiết tối đa giá thành tại những cơ xưởng sản xuất. Chính những ‘lỏng lẻo’, ‘nhắm mắt’ về môi trường đã biến một số quốc gia mới nổi thành ‘thùng rác’ quốc tế khi tiếp nhận những cơ xưởng về kỹ nghệ nặng hay hoá chất.
Lịch sử phát triển những năm vừa rồi cho ta thấy, khi áp dụng ‘suông’ mô hình ‘gia công’ thì quốc gia mới nổi sẽ mãi mãi là ‘cơ xưởng bẩn’ của thế giới. Muốn mô hình này là một bàn đạp để tiến lên trên con đường phát triển thì phải kèm theo sự chuyển giao thực sự công nghệ và sự thiết lập hệ thống công nghiệp phụ trợ nội địa.
Việt Nam hiện vẫn trong giai đoạn mô hình ‘suông’, thêm vào đó sự cố ‘bùn đỏ bôxit’. ‘cá chết’ để lộ ra cái nét ‘bẩn’ của mô hình.

- Cơ cấu sản xuất ‘tiền công nghiệp’

Một số doanh nghiệp FDI vào VN rất muốn dùng hàng phụ trợ trong nước, nhưng họ không kiếm ra nhà cung cấp nào có đủ khả năng sản xuất hàng phụ trợ theo đúng tiêu chuẩn chất lượng mà họ đòi hỏi. Câu chuyện con vít cho điện thoại Samsung là một bằng chúng cụ thể ta còn trong thời kỳ tiền công nghiệp.

Muốn có một nền công nghiệp hiện đại phải có hai nhân tố, thứ nhất là vốn thứ nhì nguồn nhân lực. Vốn thì như đã nói ở trên đổ hết vào thị trường đầu cơ và nguồn nhân lực thì ta ráo riết đào tạo tiến sĩ, và có phần buông lơi khâu đào tạo chuyên viên và công nhân lành nghề, có mua được máy về cũng không ai biết xài !

- Tài chính èo uột

Muốn phát triển một nền kinh tế bền vững phải có một hệ thống ngân hàng vững mạnh quản lý dòng tiền ổn định tài chính vững. Ngân hàng có quy mô sẽ dễ vượt qua những bất cập nhất thời, nguồn vốn ổn định sẽ giúp ngân hàng tài trợ những dự án dài hạn cần thiết cho phát triển kinh tế.

Hệ thống ngân hàng Việt Nam gồm 34 nhà băng thuộc hạng nhỏ và siêu nhỏ (so với thế giới) hiện đang chật vật với nợ xấu và lợi nhuận suy giảm mạnh.
Về ổn định nguồn vốn, một lãnh đao ngân hàng đã thổ lộ « Chúng tôi quanh năm đi ‘cầu khỉ’, người dân gửi tiền bình quân cho một hạn kỳ là 3 tháng, 6 tháng họa hoằn 1 năm. Bên vay, nhất là phía doanh nghiệp đòi hỏi tài trợ những dự án kéo dài vài năm và VN không có thị trường vốn dài hạn, kêu gọi sự hỗ trợ của thị trường liên ngân hàng thì NHNN hiện hạn chế tối đa ».

- Lao động thiếu tay nghề

Theo Tố chức lao động quốc tế (ILO) năng suất lao động Việt Nam thua Lào, chỉ còn cao hơn Myanmar, Campuchia và chỉ bằng nửa Trung Quốc. Mặt khác, những báo cáo về năng lực cạnh tranh PCI, báo cáo của VCCI, những nghiên cứu của Viện Khoa học Lao động và Xã hội đều đi đến một kết luận, sự dư thừa của lao động phổ thông, sự thiếu hụt của lao động có tay nghề cho mọi ngành và bên cạnh đó tỷ số rất cao sinh viên mới ra trường, thất nghiệp, không có công ăn việc làm. Như vậy là độ chênh giữa nhu cầu lao động và nguồn cung lao động là rất cao.

Hiển nhiên, nguyên do sự hạn chế trên là từ hệ thống giáo dục còn quá đặt nặng trên văn hoá khoa cử và quên đi là nhiệm vụ chính của hệ thống giáo dục là đào tạo những con người phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế và hữu ích cho xã hội

Chúng ta phải làm gì?

Sau 4 năm suy thoái ‘căn nhà’ kinh tế Việt Nam đang siêu vẹo vì bên ngoài cơn lốc khủng hoảng kinh tế đang hoành hành, bên trong con mọt đầu cơ và tham nhũng đang gặm nhấm. Móng nhà, sườn nhà không còn vững và mái nhà, trần nhà thấm dột, rạn nứt, thế mà dân cư trong căn nhà này càng ngày càng đông (dự đoán 2050, 140 triệu người).

Vậy mà ta sắp mở rộng cửa đón tiếp nào AEC, nào EVFTA, nào TTP những ông khách giàu sụ và rất khó tính, chưa kể ông hàng xóm Trung Quốc vẫn dòm ngó lân la chiếm đất, kinh doanh.

Liệu chúng ta có thể làm như mấy năm trước, lấp tạm những chỗ dột, sơn phết lại cái bề ngoài rồi tiếp tục sống? Tất nhiên là được, nhưng sẽ khó tránh được, như ở Trung Quốc một số dân cư có phương tiện dọn nhà đi ở chỗ khác, mấy ông khách quý mua rẻ lại một phần căn nhà, còn ông hàng xóm sẽ chiếm hẳn cái sân ngoài.

Có lẽ ta nên nhìn xa hơn, và trước tình trạng đổ nát của căn nhà, đổ lại móng nhà, xây lại tường vách, sửa sang mái nhà, trừ diệt mối, mọt. Và khi căn nhà khang trang trở lại ta sẽ tha hồ đón khách quý và nhân tiện mời ông hàng xóm tham lam đi chơi chỗ khác. Tuy nhiên muốn sửa sang căn nhà thì phải có tiền, vậy việc đầu tiên là phải kiếm tiền, kiếm nhà tài trợ.

Cụ thể ta phải làm những gì ?

Thay đổi căn bản

- Thay đổi thể chế

Xây lại cái móng nhà là xây lại nền tảng của nền kinh tế trên hệ thống kinh tế thị trường tự do. Đường hướng này đã được đề ra nhưng chưa được áp dụng triệt để và nghiêm túc, đường hướng này cũng hoàn toàn phù hợp với thể chế mong muốn trong cuộc hội nhập quốc tế. Cốt lõi của kinh tế thị trường là luật chơi thị trường được bảo đảm, mọi tác nhân đều bình đằng, không một ai có quyền chi phối thị trường. 

Như vậy, phải định rõ quyền lực của chính phủ trên thị trường là ngăn chặn những hành động xâm phạm đến luật thị trường và chính phủ sẽ không can thiệp trực tiếp vào thị trường, dưới mọi lý do nào khác. Như vậy ta cũng phải ngăn chặn mọi tác nhân vì quy mô hay về thể chế có thể tác động trên thị trường, nói một cách khác ta phải giảm thiểu doanh nghiệp quốc doanh và ra bộ luật chống những liên kết, những thỏa thuận thao túng giá cả (anti cartel & trust).
Kinh tế thị trường chỉ có thể có nếu có quyền tư hữu, vì vây phải trả lại quyền sở hữu đất cho người dân. Tự do thị trường cũng là sự bình đẵng trong việc sử dụng tư liệu sản xuất vì vậy ta phải trả lại tự do cho thị trường vốn, định nghĩa lại quyền hạn và thể chế của Ngân hàng nhà nước. Ngài ra, Công đoàn lao động phải hoàn toàn độc lập với Nhà nước, nhất cử lưỡng tiện, điểm này sẽ phù hợp với những gì đã ký kết trong hiệp định TPP. 
Xây dựng lại nền kinh tế thị trường, không có nghĩa là ta phải xoá bỏ hoàn toàn cái vế thứ nhì của đường lối Nhà nước, ‘định hướng xã hội chủ nghĩa’. Nhưng ta phải định nghĩa rõ ràng thế nào thế nào là ‘định hướng xã hội chủ nghĩa’, trong một nền kinh tế thị trường, định hướng hợp lý nhất vẫn là bảo vệ người lao động, người tiêu dùng và nói chung người dân trước những áp lực, những hành động tiêu cực và quá quắt của tác nhân có quyền lực kinh tế.
Lịch sử chứng minh, kinh tế thị trường chỉ có thể tồn tại nếu bình đẳng trên thị trường đi đôi với bình đẳng chính trị. Kinh tế thị trường khó sống chung lâu dài với một thể chế độc tài, dù là độc tài vô sản. Vì vậy muốn thực sự phát huy sức mạnh của thị trường vấn đề dân chủ, bình đẳng chính trị phải được đặt ra.

- Mô hình tăng trưởng

Xây xong cái nền, cái móng nhà, bây giờ ta phải sửa sang tường vách, mái nhà. Việt Nam phải khẳng định mô hình tăng trưởng của mình và áp dụng mô hình một cách triệt để. Trong tình thế cạnh tranh trên thương trường thế giới ta rất khó thoát khỏi mô hình ‘gia công’, nhưng ta phải tạo một tính cách đặc trưng cho mô hình. Đặc trưng này sẽ là chiến lược cạnh tranh dựa trên sự khác biệt tích cực và cũng sẽ là bàn đạp cho phát triển kinh tế quốc gia.

Mô hình tăng trưởng ‘gia công’ theo kiểu Việt Nam sẽ có hai nét chính đó là Chất lượng và Phát triển bền vững.
Chất lượng đây phải là chất lượng Toàn bộ (total quality) đi xa hơn những tiêu chuẩn ISO về chất lượng hiện hành và áp dụng cho mọi khâu sản xuất, mọi ngành nghề. Ta còn nhớ sản phẩm Nhật Bản trong những năm 60 nổi tiếng thế giới là đồ rẻ tiền, kém chất lượng, Chính phủ Nhật đã phát động trên toàn quốc Phong trào chất lượng dưới sự tư vấn của giáo sư Mỹ Deming. Chỉ trong 5 năm, Nhật Bản đã lật ngược thế cờ và sản phẩm, dịch vụ. Nhật được bầu chọn trên mọi thị trường là chất lượng hàng đầu, Việt Nam nên theo gương Nhật Bản.

Phát triển bền vững cũng phải được áp dụng một cách toàn bộ từ bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ môi trường làm việc đến bảo vệ môi trường sống. Như vậy phát triển bền vững sẽ đi đôi với Chính sách Chất lượng.

Để đảm bảo chất lượng toàn bộ, các doanh nghiệp FDI muốn sản xuất ở Việt Nam sẽ phải đặt tại chỗ những phòng Nghiên cứu và phát triển, như vậy, chuyển giao công nghệ sẽ đươc thực hiện một cách cụ thể. Cũng để đảm bảo chất lượng các doanh nghiệp này sẽ phải hỗ trợ hoặc trực tiếp phát triển công nghiệp phụ trợ. Như vậy không những mặt hàng xuất khẩu từ Việt Nam sẽ được hoàn toàn miễn thuế (theo tiêu chí của hiệp định TPP) mà còn đặt nền tảng vững chắc cho nền công nghiệp quốc gia.

- Hệ thống giáo dục

Nhiệm vụ của giáo dục là đào tạo con người thực dụng cho xã hội và có chỗ đứng trong nền kinh tế. Vì vậy ta phải từ bỏ hệ thống giáo dục khoa bảng, tìm một hướng đi thực tiễn hơn, con người sau đào tạo phải là một lao động có tay nghề, đã có trải nghiệm làm việc trong ngành, như vậy có thể phụng sự liền cho nền kinh tế.

Hệ thống giáo dục Bắc Âu là một điển hình trong chiều hướng này. Trẻ em, sau hết học kỳ bắt buộc (16 tuổi) phần đông theo chế độ học nghề, trong 4 năm được đào tạo 2 ngày một tuần ở trường nghề và thời gian còn lại thực tập tại doanh nghiệp. Khi ra trường sẽ đã là một người thợ giỏi, một nhân viên bán hàng hay nhân viên văn phòng có tay nghề. Con đường tiến thân cũng không ngừng ở đây, họ có thể học thêm ở những khoá kỹ sư hay chuyên gia trong nghề, họ cũng có thể sau đó theo đuổi những khoá cao học ở đại học.
Việt Nam nên nghiên cứu và áp dụng hệ thống giáo dục theo chiều hướng Bắc Âu.

Thay đổi cấp bách

Những thay đổi căn bản nói trên sẽ chỉ tác động trong một thời gian, cái cần thiết ngay bây giờ là phải làm sao đưa Việt Nam hẳn vào quỹ đạo phát triển cao (ít nhất 6,7%) và kiếm ra vốn để thực hiện những thay đổi. Chỉ riêng muốn có tăng trưởng GDP ở mức 6,7% trong năm 2016, theo tính toán của các chuyên gia, đầu tư toàn xã hội sẽ phải ở mức 1,6 triệu tỷ VND. Để tránh nạn thất nghiệp cho giới trẻ mới học xong, mỗi năm phải tạo một triệu công ăn việc làm. Làm sao ta huy động được vốn để đảm bảo ổn định kinh tế và xã hội ?

- Khai thông hệ thống ngân hàng

Trước tiên ta phải khai thông mạch máu dòng tiền. Muốn hệ thống ngân hàng đảm nhiệm chức năng huy động vốn và tài trợ doanh nghiệp thì ta phải, thứ nhất giải quyết một cách dứt khoát nợ xấu, thứ nhì tạo cho ngân hàng quy mô tối ưu để có thể chịu đựng được rủi ro tín dụng trong thời kỳ phát triển. Muốn gỡ gánh nặng nợ xấu cho ngân hàng, thì nhất thiết phải đổ tiền ‘thật’ giúp ngân hàng gầy dựng lại vốn, như vậy ngân hàng mới yên tâm tiếp tục cho doanh nghiệp vay. Muốn tạo quy mô cho ngân hàng phải giúp sức hợp nhất những ngân hàng nhỏ lẻ thanh một khối vững chắc.

- Chuyển hướng dòng tiền đầu tư

Khi đã khai thông được dòng tiền, nhất quyết ta phải chuyển hướng, không để vốn chạy trở lại thị trường đầu cơ, xây dựng kinh tế ‘ảo’. Muốn ngăn chặn đầu cơ, trong một thị trường tự do, cách tốt nhất vẫn là giảm thiểu sự hấp dẫn của đầu cơ bằng những sắc thuế thật nặng đánh trên lợi nhuận thâu được trên sự mua đi bán lại với tính cách đầu cơ. Trên thị trường tài chính, ngăn chặn những giao dịch có tính cách đầu cơ, đóng cửa thị trường phái sinh, ngăn chặn đầu cơ trên ngoại tệ.

- Huy động vốn nước ngoài

Tình hình thị trường thế giới đang rất thuận lợi để kêu gọi đầu tư vào Việt nam.

Với những khó khăn hiện tại của nền kinh tế Trung Quốc, với những bất trắc chính trị ở những quốc gia có liên quan ít nhiều đến lực lượng khủng bố Hồi giáo, với sự suy sụp của kinh tế Nam Mỹ, Việt Nam với những hiệp định hội nhập quốc tế rất dễ dàng thu hút vốn đầu tư FDI. Đầu tư sản xuất ở Việt nam là có thể tiếp cận một thị trường màu mỡ, 2/3 GDP thế giới.

Với một thị trường tài chính thế giới ảm đạm, lãi suất bằng không, chứng khoán mất điểm, với sự suy sụp của chứng khoán Trung Quốc, Việt Nam cũng có một vị trí tốt để kêu gọi vốn đầu tư tài chính, nhưng ta nên tránh xa những quỹ đầu cơ (kiểu Hedge funds) họ có thể đến rất nhanh, nhưng ra đi cũng nhanh không kém, gây bất ổn cho thị trường hơn là hỗ trợ phát triển kinh tế.

Muốn kêu gọi vốn vào Việt nam ta phải năng động, đến những thị trường, đi gặp các nhà đầu tư, đó là thông lệ của giới tài chính, làm những buổi gặp gỡ (roadshow) trực tiếp với nhà đầu tư.

- Tư hữu hoá doanh nghiệp nhà nước

Chính phủ đang tiến hành cổ phần hoá DNNN, nên tiến thêm một bước và đi đến tư hữu hoá số đông những doanh nghiệp trên và chỉ giữ lại những doanh nghiệp phục vụ trực tiếp lợi ích xã hội.

Tư hữu hoá là cách nhanh nhất để đi đến một nền kinh tế thị trường thực sự. Mặt khác đây là một phương án để giảm thiểu gánh nặng nợ công và giải quyết thiếu hụt ngân sách nhà nước.

Với tư hữu hoá, ta cũng kêu gọi đươc vốn nước ngoài, để tránh những hiện tượng thâu tóm, trục lợi nhất thời của những tập đoàn trong nước hay nước ngoài, cổ phần sẽ được chào bán ra đại chúng với sự hạn chế một cá nhân hay tập thể không được quyền nắm giữ quá một tỷ lệ vốn điều lệ.

Hướng tới hội nhập quốc tế

Kinh nghiệm lịch sử khi Việt Nam gia nhập WTO (2011), cho thấy là ta đã hoàn toàn thiếu sửa soạn và bị đưa vào thế bị động. Ngay từ lúc đệ đơn xin gia nhập WTO ta đã có thông tin đại chúng, đã tổ chức hội thảo, đánh giá tình hình. Nhưng trong những cuộc hội thảo này bình thường chỉ có đề cao những điểm tốt và phô trương thành tích, rồi mọi người đi về, phấn khởi. Để đến lúc hiệp định có hiệu lực, hàng nước ngoài, vốn nước ngoài đổ vào Việt nam, mọi người mới ngỡ ngàng, Ngớ ngẩn hơn nữa là các nhà xuất khẩu hoàn hoàn không có thông tin, không biết thực trạng và cách tiếp cận những thị trường mới mở.

Thế rồi lịch sử lại lập lại với Cộng đồng AEC. Lại thông tin, lại hội thảo, lại ra về phấn khởi, nhưng lại ngỡ ngàng tổng kết 2015, Malaysia đầu tư FDI 2,5 tỷ đô vào Việt Nam, Singapore hơn 1 tỷ và gần đây nữa khi Thái Lan thâu tóm Big C, rồi ép giá các nhà cung cấp và nông dân Việt để rồi thay thế bằng mặt hàng Thái. Việt Nam một lần nữa lại ở thế bị động.

Còn hai năm nữa hiệp định tương mại tự do với EU và với khối TPP sẽ có hiệu lực, ta phải khẩn trương sửa soạn với một chương trình hành động cụ thể.

- Trên thị trường nội địa

Khi đã chấp nhận luật chơi thị trường và mở cửa cho hàng hoá, nguồn vốn vào Việt thì không thể có những hành động rào cản ngăn chặn. Chỉ còn cách hỗ trợ doanh nghiệp trong nước trên khả năng cạnh tranh trong phạm vi luật chơi thị trường, tránh gây khác biệt đối xử với doanh nghiệp nước ngoài. Mặt khác ta cũng phải cài đặt những luật lệ, quy định ngăn chặn những mưu toan giành ưu thế và chi phối một thị trường, như thâu tóm doanh nghiệp để chiếm lãnh giành ưu thế độc quyền thị trường. Phải cài đặt một hội đồng giám sát thị trường và phê duyệt tất cả những thương vụ, mua bán, sát nhập doanh nghiệp (M&A) trên khía cạnh bảo vệ thị trường tự do.

- Trên thị trường nước ngoài

Trong bước đầu ta phải giúp các doanh nghiệp hiểu rõ cặn kẽ thị trường và nhu cầu người tiêu dùng của từng thị trưòng nước ngoài. Nhật Bản trong thời kỳ phục hưng sau đệ nhị thế chiến, trong ý đồ tiếp cận những thị trường nước ngoài đã biến những tòa đại sứ Nhật thành những trung tâm tiếp thị, thâu thập thông tin, nhu cầu thị trường và mặt khác kết nối doanh nghiệp Nhật với doanh nghiệp nước ngoài, đi xa hơn nhiều so với công việc bình thường của một Tham tán thương mại ở một tòa đại sứ. Ngoài ra Nhật Bản, thời đó, cũng có một hệ thống hậu cần (logistique) cho xuất khẩu hàng hoá và hệ thống ngân hàng Nhật Bản quốc tế xử lý tất cả những vấn đề tài chính. Như vậy Nhật Bản thời đó đã ‘xuất quân’ có đội ngũ và có dàn trận. Việt Nam nên lấy đó làm gương.

Phạm Nam Kim - (*) Chuyên gia tài chính, Thuỵ Sĩ

Luật sư tư vấn miễn phí

Gọi ngay
0902818158- 0906834543
0906834543
0902818158

Tin pháp luật

CÁC ĐỐI TÁC

  • Nhà Đất Phúc An Khang
  • The Diplomat
  • The NewYork Review of Book
  • CogitAsia
  • Reuters
  • Viet Studies
  • The NewYork Times
  • TIME
  • Bloomberg Bussiness