Ở Việt Nam, thời hạn sử dụng nhà chung cư là một trong số nội dung đang được quan tâm theo quy định của Luật Nhà ở 2014 vừa được Quốc hội thông qua ngày 25/11/2014 và chính thức có hiệu lực vào ngày 1/7/2015. Theo quy định tại điều 123 Luật Nhà ở, việc mua bán nhà ở phải lập thành hợp đồng có công chứng. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bán thực hiện bán nhà ở, chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với nhà ở đó trong một thời hạn nhất định cho bên mua. Về công nhận quyền sở hữu nhà được thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai, nếu bên mua nhà có thời hạn thì được cấp Giấy chứng nhận trong thời hạn sở hữu nhà ở. Theo Nghị định 43/2014 thì chế độ sử dụng đất xây dựng nhà chung cư theo thời hạn ổn định lâu dài, diện tích căn hộ được xác định theo hợp đồng mua bán căn hộ.
Khoản 1 Điều 98 Luật Nhà ở 2014 quy định: “Nhà chung cư được phân thành nhiều hạng khác nhau để xác định giá trị của nhà chung cư khi thực hiện quản lý hoặc giao dịch trên thị trường”. Thời hạn sử dụng nhà chung cư theo đó cũng được phân thành nhà chung cư sở hữu lâu dài và nhà chung cư sở hữu có thời hạn, tùy thuộc vào phân loại công trình, chất lượng công trình đối với từng dự án đầu tư và được ghi nhận trong Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đi sâu phân tích về niên hạn sử dụng đối với nhà chung cư có thời hạn.
Cũng như những tài sản khác, khi trải qua một thời gian dài sử dụng, do các tác động khách quan từ thiên nhiên và tác động chủ quan từ phía người sử dụng, các căn hộ chung cư đến lúc sẽ xuống cấp, hư hỏng, nếu tiếp tục sử dụng sẽ nguy hiểm đến tính mạng con người. Vì vậy, sau một thời gian sử dụng, nhà chung cư được kiểm định căn cứ vào cấp công trình xây dựng.
Thứ nhất, về niên hạn sử dụng nhà chung cư
Khoản 1 Điều 99 Luật Nhà ở 2014 quy định: “Thời hạn sử dụng nhà chung cư được xác định căn cứ vào cấp công trình xây dựng và kết luận kiểm định chất lượng của cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh nơi có nhà chung cư”. Thời hạn sử dụng nhà chung cư phải được xác định theo cấp công trình xây dựng cũng như kết luận kiểm định chất lượng của cơ quan quản lý nhà ở. Cách tính thời hạn theo cấp công trình xây dựng, Phụ lục 1.3 phân cấp các loại công trình xây dựng phục vụ công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng kèm theo Thông tư số: 10/2013/TT-BXD ngày 25/7/2013 của Bộ Xây dựng, quy định:
- Công trình cấp 4 có niên hạn sử dụng dưới 20 năm;
- Công trình cấp 3 có niên hạn sử dụng từ 20 năm đến dưới 50 năm;
- Công trình cấp 2 có niên hạn sử dụng từ 50 năm đến 100 năm;
- Công trình cấp 1 và công trình đặc biệt có niên hạn sử dụng trên 100 năm.
Khi nhà chung cư hết thời hạn sử dụng theo quy định của pháp luật về xây dựng thì cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh phải tổ chức kiểm định chất lượng công trình nhà chung cư này để xử lý. Việc tổ chức kiểm định cũng được thực hiện trong trường hợp nhà bị hư hỏng nặng, có nguy cơ sập đổ, không bảo đảm an toàn cho người sử dụng (Khoản 2 Điều 99 Luật Nhà ở 2014).
Quy định về thời hạn sử dụng phụ thuộc vào cấp công trình như trên đã phần nào tạo nên sự thông thoáng cho chính sách đầu tư vào thị trường bất động sản của các nhà đầu tư, đồng thời cũng khuyến khích các họ mạnh dạn trong việc bỏ đồng vốn xây dựng các công trình có chất lượng, phù hợp quy chuẩn, qua đó đem lại cuộc sống an toàn, bền vững cho các hộ dân.
Thứ 2, Khi nhà chung cư không còn niên hạn sử dụng
* Trường hợp nhà chung cư còn bảo đảm chất lượng và an toàn cho người sử dụng thì chủ sở hữu được tiếp tục sử dụng theo thời hạn ghi trong kết luận kiểm định, trừ trường hợp nhà chung cư bị hư hỏng mà chưa thuộc diện bị phá dỡ nhưng nằm trong khu vực phải thực hiện cải tạo, xây dựng đồng bộ với khu nhà ở thuộc diện bị phá dỡ theo quy hoạch xây dựng được phê duyệt (Điểm a Khoản 2 Điều 99 Luật Nhà ở 2014)
* Trường hợp nhà chung cư bị hư hỏng nặng, có nguy cơ sập đổ, không còn bảo đảm an toàn cho người sử dụng thì cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh phải ban hành kết luận kiểm định chất lượng và báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để thông báo bằng văn bản cho chủ sở hữu nhà ở; nội dung văn bản thông báo phải được công bố công khai trên Cổng thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân và cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh, trên phương tiện thông tin đại chúng của địa phương. Chủ sở hữu nhà chung cư có trách nhiệm phá dỡ để cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư mới hoặc bàn giao cho cơ quan có thẩm quyền để phá dỡ và xây dựng công trình khác theo quy định tại khoản 3 Điều này (Điểm b Khoản 2 Điều 99)
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 99 Luật Nhà ở 2014, trong trường hợp này, nếu khu đất có nhà chung cư vẫn phù hợp với quy hoạch xây dựng nhà ở thì chủ sở hữu được cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư mới. Nếu khu đất có nhà chung cư không còn phù hợp với quy hoạch xây dựng nhà ở thì chủ sở hữu nhà chung cư phải bàn giao lại nhà chung cư này cho cơ quan có thẩm quyền để phá dỡ và xây dựng công trình khác theo quy hoạch được duyệt.
Thứ ba, quyền lợi của người có quyền sở hữu nhà chung cư
Khi Luật Nhà ở 2015 ra đời, quyền lợi của các hộ gia đình, cá nhân khi nhà chung cư hết niên hạn được quy định như sau:
Theo Điều 116 Luật Nhà ở 2014, các chủ sở hữu có nhà chung cư thuộc diện phá dỡ để cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư thì được bố trí tái định cư. Việc bố trí tái định cư bằng nhà ở được thực hiện thông qua hợp đồng cho thuê, cho thuê mua, mua bán nhà ở ký giữa người được bố trí tái định cư với đơn vị được giao bố trí tái định cư nếu do Nhà nước đầu tư; ký với chủ đầu tư dự án nếu do doanh nghiệp kinh doanh bất động sản đầu tư xây dựng. Nếu chủ sở hữu không có nhu cầu tái định cư tại chỗ thì tùy theo điều kiện cụ thể của địa phương mà được bố trí nhà ở, đất ở tái định cư theo quy định tại Điều 36 của Luật Nhà ở 2014.Trường hợp chủ sở hữu có nhu cầu tái định cư tại chỗ thì được bố trí nhà ở mới có diện tích tối thiểu bằng hoặc lớn hơn diện tích nhà ở cũ.
Trường hợp Nhà nước đầu tư cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư thì chủ đầu tư dự án phải lo chỗ ở tạm thời hoặc thanh toán tiền để người được tái định cư tự lo chỗ ở trong thời gian cải tạo, xây dựng lại; trường hợp doanh nghiệp kinh doanh bất động sản và chủ sở hữu thỏa thuận đầu tư cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư thì các bên thỏa thuận về chỗ ở tạm thời của chủ sở hữu trong thời gian cải tạo, xây dựng lại.
Khi nhà nước đầu tư cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư mà có chênh lệch về giá trị giữa nhà ở cũ và nhà ở mới thì việc thanh toán giá trị chênh lệch được thực hiện theo phương án bố trí tái định cư đã được phê duyệt; nếu doanh nghiệp kinh doanh bất động sản và chủ sở hữu thỏa thuận đầu tư cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư thì việc thanh toán giá trị chênh lệch được thực hiện theo thỏa thuận giữa các bên.
Như vậy, quyền lợi của chủ sở hữu căn hộ chung cư đã được đảm bảo hơn, tiến bộ hơn. Qua đó, các hộ gia đình, cá nhân sẽ an tâm hơn khi lựa chọn nhà chung cư làm nơi an cư lạc nghiệp.
Luật sư Phạm Thị Bích Hảo – Giám đốc Công ty luật TNHH Đức An
Có nên giới hạn thời gian quyền sở hữu căn hộ chung cư ?
Trước hết cần khẳng định thời gian sở hữu chủ một căn hộ chung cư và thời gian tồn tại của một chung cư là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Một đằng liên quan đến “quyền” (quyền định đoạt, quyền sử dụng, quyền mua bán trao đổi, thừa kế), và một đằng liên quan đến khía cạnh kỹ thuật. Quyền sở hữu đất và các công trình xây dựng trên đất là quyền lâu dài (có thể nói là vĩnh viễn) của công dân được luật pháp bảo hộ, kể cả khi công trình đó vì lý do gì đó không còn tồn tại nữa.
Không có công trình xây dựng nào tồn tại vĩnh viễn, mà đều có tuổi thọ nhất định. Tuổi thọ dài hay ngắn của một chung cư phụ thuộc vào địa chất công trình, vật liệu xây dựng, trình độ thiết kế và thi công. Chính vì điều này mà ở các nước, các công trình xây dựng có qui mô nào cũng có lí lịch theo dõi riêng, cùng một lúc được lưu giữ ở vài ba nơi (chủ đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước, người sử dụng). Tuổi thọ công trình được một cơ quan kiểm định độc lập đánh giá và cứ sau một thời gian nhất định (5 hoặc 10 năm) được kiểm định lại.
Ngoài việc kiểm định theo định kỳ, khi có những sự cố bất thường như động đất, lũ lụt, hỏa hoạn sẽ có những kiểm định bổ sung và khi hết thời gian sử dụng thì người sử dụng nhận được một giấy báo cho biết tuổi thọ công trình đã hết, không còn an toàn nữa. Dựa trên cơ sở này mà cơ quan quản lý tiến hành các thủ tục cần thiết trong khuôn khổ luật định để xử lý và xây dựng các phương án tiếp theo, như đập đi xây mới hay chuyển mục đích sử dụng đất sang việc khác. Tuy nhiên để thực hiện điều này thì phải có những tổ chức kiểm định có uy tín và họ có trách nhiệm theo dõi lâu dài. Ở các nước như Hàn Quốc, Singpore, Mỹ, Pháp, Đức có khá nhiều tổ chức kiểm định chất lượng quốc tế như thế. Nhưng khi công trình không tồn tại nữa do hư hỏng, động đất tàn phá thì quyền sở hữu của họ vẫn còn.
Ở hầu hết các nước, đất đai là sở hữu của tư nhân, do vậy khi một người dân mua một căn hộ chung cư thì đồng nghĩa với việc họ được sở hữu không chỉ căn hộ mà còn một phần diện tích đất trong tổng diện tích toàn khuôn viên (sân, công viên, diện tích công trình phụ kèm theo) tính theo tỷ lệ. Mảnh đất mà họ sở hữu chỉ vài mét vuông, nhưng đấy chính là cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của họ. Khi chung cư hết thời hạn sử dụng kỹ thuật thì họ vẫn có quyền tham gia cùng mọi người khác định đoạt miếng đất đó trong việc xây mới, bán đi hay làm vào mục đích khác, cố nhiên họ có quyền bán, sang nhượng cái quyền đó cho người khác. Trong hợp đồng mua bán căn hộ còn có những điều khoản đảm bảo quyền lợi mà họ (con cháu họ) sẽ tiếp tục được hưởng, hay được chia sẻ một phần sau khi chung cư phải đập đi, chẳng hạn cam kết được ưu đãi sau khi xây chung cư mới. Xin lưu ý là sau 50,70, 100 năm thì giá trị miếng đất đã rất khác, nhất là ở những vị trí tốt, giá trị gia tăng lên hàng chục thậm chí là hàng trăm lần.
Trong khi đó ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà đại diện là nhà nước, do vậy nếu sau 50 năm hạn định, chung cư bị đập đi thì đất trả lại cho nhà đầu tư hay nhà nước thu hồi. Nhà đầu tư lại tiếp tục một vòng quay khai thác mới trong 50 năm, như thế những người giàu lại tiếp tục giàu lên, còn nhà nghèo lại tiếp tục một vòng đời tần tảo mới, bởi giá trị tích lũy của thế hệ trước sau 50 năm trở về không (!). Đây là điều hoàn toàn vô lý về giá trị tài sản thừa kế không phải chỉ ở phương Đông mà ở phương Tây cũng vậy, điểu này tất nhiên là đặc biệt hơn ở châu Á, bởi nhà ở châu Á không đơn giản chỉ là chỗ chui ra chui vào mà còn chứa đựng những giá trị tinh thần rất lớn lao. Khi một người mất đi mà không để lại cho con một cái nhà thì thật khó nhắm mắt, và sẽ khó nhắm mắt hơn nếu đó lại chỉ là một khoảng không gian sắp hết thời hiệu sử dụng.
Tác giả bài này có trao đổi trực tiếp với GS. Chu Trấn Thành, viện trưởng Viện nghiên cứu chất lượng sống đô thị của thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc (Trung Quốc), ông cho hay là vào những năm 1990, Trung Quốc có đưa ra chính sách người dân chỉ được sở hữu một căn hộ chung cư trong thời gian 50 năm với mục đích tạo thuận lợi cho việc thu hồi, xây dựng mới. Cơ sở của chính sách này là ở Trung Quốc đất đai là sở hữu toàn dân (giống như ở Việt Nam), khi cần xây dựng công trình công cộng thì chính phủ chỉ phải đền bù nhà, còn đất là thu hồi trắng, nhưng ngay thời điểm đó đã gặp phải phản ứng gay gắt của người dân. Sau hơn 20 năm đã có những bất ổn nảy sinh trong chính sách này, do vậy chính phủ Trung Quốc đang bàn thảo chính sách gia hạn thời hạn sử dụng thêm 20 năm hoặc nhiều hơn nữa tùy thuộc vào chất lượng của công trình, trong trường hợp cần lấy đất thỉ phải đền bù theo giá thị trường cả nhà lẫn đất. Nếu Trung Quốc thay đổi quan niệm chuyển đất đai từ sở hữu toàn dân sang sở hữu tư nhân thì sẽ có rất nhiều chính sách liên quan đến nhà ở bị bãi bỏ.
Bất động sản là một lĩnh vực rất nhạy cảm và phức tạp, do vậy cần có sự thận trong trong việc ban hành chính sách, nếu vội vàng thì việc sửa sai không dễ dàng và hậu quả để lại cũng không mấy dễ chịu.
SOURCE: BÁO SÀI GÒN TIẾP THỊ ĐIỆN TỬ - TS. NGUYỄN MINH HÒA
Chế độ sử dụng đất xây dựng nhà chung cư được pháp luật quy định như thế nào?
Gửi bởi: Hoàng Ngọc Hà
Trả lời có tính chất tham khảo
Theo Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều, khoản của Luật Đất đai số 45/2013/QH13 thì Chế độ sử dụng đất xây dựng nhà chung cư được pháp luật quy định như sau:
“Điều 49. Chế độ sử dụng đất xây dựng nhà chung cư
1. Đất xây dựng nhà chung cư, nhà chung cư có mục đích hỗn hợp để ở và làm văn phòng, cơ sở thương mại, dịch vụ (sau đây gọi chung là nhà chung cư) bao gồm đất xây dựng khối nhà chung cư, đất làm sân, trồng hoa, cây xanh xung quanh nhà chung cư, đất xây dựng các công trình hạ tầng.
2. Chủ đầu tư dự án xây dựng nhà chung cư được giao đất, cho thuê đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với diện tích đất thuộc dự án theo quy định sau đây:
a) Đối với diện tích đất xây dựng nhà chung cư và đất xây dựng công trình hạ tầng do chủ đầu tư sử dụng để kinh doanh theo dự án đầu tư và quy hoạch xây dựng chi tiết đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thì chủ đầu tư được Nhà nước giao đất, cho thuê đất và phải nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
b) Đối với diện tích đất làm đường giao thông, các công trình hạ tầng khác phục vụ cho người dân ở cả trong và ngoài nhà chung cư mà chủ đầu tư không sử dụng để kinh doanh dịch vụ theo dự án đầu tư thì chủ đầu tư được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để quản lý, xây dựng công trình và không phải nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; không được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; bàn giao cho địa phương quản lý đối với diện tích đất đó sau khi đã hoàn thành xây dựng theo dự án đầu tư, quy hoạch xây dựng chi tiết và quyết định giao đất, cho thuê đất của cơ quan có thẩm quyền.
3. Quyền sử dụng đất và việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trong các dự án xây dựng nhà chung cư để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê được thực hiện theo quy định sau đây:
a) Diện tích đất thuộc quyền sử dụng chung của các chủ sở hữu căn hộ chung cư, văn phòng làm việc, cơ sở thương mại, dịch vụ trong nhà chung cư (sau đây gọi chung là căn hộ) bao gồm diện tích đất xây dựng khối nhà chung cư, làm sân, trồng hoa, cây xanh xung quanh nhà và đất xây dựng các công trình hạ tầng bên ngoài nhà chung cư nhưng để phục vụ trực tiếp cho nhà chung cư được chủ đầu tư bàn giao cho các chủ sở hữu căn hộ tự tổ chức quản lý, sử dụng theo dự án đầu tư. Chủ đầu tư có trách nhiệm xác định rõ vị trí, ranh giới, diện tích đất thuộc quyền sử dụng chung trong dự án đầu tư, quy hoạch xây dựng chi tiết và thiết kế mặt bằng công trình để trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; trong các hợp đồng mua bán nhà ở và bản vẽ hoàn công công trình để làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho bên mua;
b) Quyền sử dụng đất quy định tại Điểm a Khoản này là quyền sử dụng chung theo phần không thể phân chia. Tỷ lệ phần quyền sử dụng đất được tính bằng tỷ lệ diện tích căn hộ chia cho tổng diện tích sàn của các căn hộ trong nhà chung cư. Việc sử dụng và định đoạt đối với quyền sử dụng đất khu chung cư do đa số người chiếm tỷ lệ phần quyền sử dụng đất quyết định nhưng phải phục vụ lợi ích chung của cộng đồng và phù hợp với quy định của pháp luật;
c) Chủ sở hữu căn hộ được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với diện tích đất sử dụng chung quy định tại Điểm a Khoản này theo thời hạn ổn định lâu dài; diện tích căn hộ được xác định theo hợp đồng mua bán căn hộ;
d) Khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho người mua căn hộ thì Giấy chứng nhận đã cấp cho chủ đầu tư quy định tại Khoản 2 Điều này phải được chỉnh lý biến động để chuyển sang hình thức sử dụng đất chung đối với phần diện tích đất quy định tại Điểm a Khoản này.
Diện tích đất thuộc dự án phát triển nhà ở còn lại ngoài phần diện tích quy định tại Điểm b Khoản 2 và Điểm a Khoản này thuộc quyền sử dụng của chủ đầu tư; chủ đầu tư được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.”
Theo phương án cũ mà Bộ Xây dựng đề xuất, “Đối với trường hợp Nhà nước giao đất, cho thuê đất để xây dựng nhà chung cư để bán, cho thuê mua, thì thời hạn sở hữu nhà chung cư là 70 năm”, và “Thời hạn sở hữu nhà chung cư được ghi vào Giấy chứng nhận và khi hết thời hạn sở hữu thì các chủ sở hữu nhà ở chung cư không còn quyền sở hữu nhà chung cư đó và phải bàn giao lại quyền sử dụng đất xây dựng nhà chung cư cho Nhà nước để phá dỡ và xây dựng lại các công trình khác theo quy hoạch được duyệt tại thời điểm bàn giao lại quyền sử dụng đất cho Nhà nước. Chủ sở hữu nhà chung cư được hỗ trợ và bố trí tái định cư theo quy định tại Điều 117 của Luật này”.
Trên thực tế khi trao đổi với phóng viên Đầu tư Bất động sản, nhiều người hiện đang sống trong các tòa nhà chung cư đều tỏ ra hết sức ngạc nhiên và tỏ ý bất bình với quy định này.
Lo ngại lớn nhất của họ là sau khi tích lũy vốn liếng gần như cả đời để mua được một căn hộ chung cư để ở với mong muốn có thể để lại chút tài sản cho con cháu, thì với quy định này sẽ khiến ước vọng của họ tan thành mây khói.
Trên thực tế, đề xuất một thời hạn tối đa đã được Bộ Xây dựng nhiều lần đề cập, lý do cũng nhiều. Cách đây 2 năm, Bộ Xây dựng cũng đã đề xuất hình thức sở hữu căn hộ chung cư có thời hạn cụ thể.
Tuy nhiên, đề xuất này không nhận được sự đồng tình của dư luận vì nhiều ý kiến cho rằng, khó đi vào thực tế, do nước ta có nhiều loại hình chung cư và thời gian xây dựng cũng như chất lượng, vị trí của mỗi chung cư không giống nhau, nên không thể ấn định thời gian chung cho tất cả các chung cư được.
Thời hạn tùy cấp công trình xây dựngTheo dự thảo lần này, nhà chung cư có thời hạn sử dụng theo phân cấp công trình xây dựng. Khi nhà chung cư hết thời hạn sử dụng theo quy định thì cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh có trách nhiệm kiểm định lại chất lượng.
Trường hợp nhà ở chung cư còn bảo đảm chất lượng và an toàn cho người sử dụng thì chủ sở hữu được tiếp tục sử dụng theo thời hạn ghi trong kết quả kiểm định chất lượng nhà chung cư.
Trường hợp khi hết hạn sử dụng mà nhà chung cư không còn bảo đảm chất lượng và không an toàn cho người sử dụng theo kết quả kiểm định chất lượng của cơ quan có thẩm quyền thì chủ sở hữu phải có trách nhiệm phá dỡ để xây dựng lại theo đúng quy hoạch xây dựng được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Nếu chủ sở hữu không phá dỡ thì Nhà nước thực hiện cưỡng chế phá dỡ.