Thách thức lớn nhất đối với kinh tế vĩ mô Việt Nam hiện nay là việc duy trì tăng trưởng. Hầu hết các tăng trưởng trong thập kỹ đỗi mới đã dẫn đến hoặc là từ hiệu quả đạt được gắn liền với sự ra đời của một nền kinh tế thị trường (mở cửa thị trường trong nước và thương mại, làm giảm nhẹ các hạn chế cản trở về phong trào lao động và các giao dịch đất đai) hoặc từ nguồn lực mở rộng của lao động kỹ năng thấp và vốn. GDP tiếp tục tăng trưởng với tốc độ rất đáng nể mặc dù thấp hơn so với dự kiến trong những văn bản kế hoạch quốc gia.
Nhưng những dấu hiệu cảnh báo cho sự tăng trưởng trong tương lai là rất rõ ràng: Một tỷ số thấp đóng góp (29 phần trăm) tổng số đóng góp của tăng trưởng năng suất vào tổng tăng trưởng; tốc độ tăng trưởng đáng thất vọng về -underwhelming- của nguồn nhân lực; thâm hụt ngân sách liên tục và gia tăng nợ khu vực công; và một tâm trạng dường như mất ý chí tiếp tục đẩy mạnh các chương trình cải cách.
Doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam (doanh nghiệp nhà nước) gây ra vấn đề cho từng bải toán nan giải đó và, như vậy, tiếp tục ngăn cản đất nước thực hiện đầy đủ tiềm năng tăng trưởng của nó. Với đặc quyền truy xuất tín dụng từ các ngân hàng thương mại nhà nước, doanh nghiệp nhà nước tiếp tục hấp thụ 49 phần trăm đầu tư mặc dù tạo ra chỉ có một phần nhỏ việc làm mới và góp phần hầu như không có gì vào thu nhập xuất khẩu . Là một nhóm, họ là cực kỳ không hiệu quả:Năng suất vốn trung bình của họ,để chỉ là một thước đo, khoảng một nửa so với các ngành công nghiệp ngoài quốc doanh.
Đám đông DNNN Vay tiền rồi đầu tư ra khu vực tư nhân và do đó làm giảm khả năng mở rộng các công ty tư nhân . Một cách tế nhị hơn, chi phí vốn cao cũng đẩy các doanh nghiệp tư nhân đó vào sự lựa chọn công nghệ thấp, và điều này ức chế sự năng động tăng trưởng . Điều này sẽ góp phần vào một khoản tiền bảo đảm về kỹ năng vừa nhỏ bé vừa giảm dần trong tiền lương cho người lao động không có trình độ đại học vì thiếu vắng công nghệ hiện đại,với người lao động trình độ học tập bậc trung thì ít giá trị. Theo đó, một thanh niên tiêu biểu Việt lựa chọn để chấm dứt việc học vào khoảng 15 tuổi chứ không phải là bước nhảy vọt tốn kém, khó khăn và không chắc chắn đến một trình độ cao đẳng.
Mặc dù hiệu suất kém , doanh nghiệp nhà nước hầu như không thể phá sản (unbankruptable). nợ chính phủ Việt Nam đã tăng 38-62 phần trăm của GDP từ năm 2011 đến năm 2015 - cao hơn so với nhiều quốc gia có thể so sánh, và chỉ hơi bên dưới nắp trăm 65 phần bắt buộc của Quốc hội của đất nước. nợ của DNNN có thể tăng gần gấp đôi con số này, với tổng số 180 khoảng $ tỷ hay 97 phần trăm GDP.
Nợ của DNNN nhiều được đảm bảo của nhà nước, trong khi kinh nghiệm gần đây với doanh nghiệp nhà nước gặp khó khăn khác cho thấy rằng ngay cả khi nó không phải là, nó sẽ được đảm nhận bởi chính phủ trong trường hợp của một sự thất bại của các DNNN. nợ của DNNN là cho mục đích thực tế một trách nhiệm thuộc vào việc chính phủ Việt Nam. Như vậy, nó nên được thêm vào các tiếp xúc của cơ quan tài chính cho mục đích tính dễ bị tổn thương với một cú sốc kinh tế vĩ mô.
Chính phủ mới của Việt Nam làm thế nào với những thách thức này?
Trong số các cải cách cơ cấu kế hoạch chứa trong văn bản chính sách hiện hành, những người liên quan đến doanh nghiệp nhà nước "cổ phần hóa" (một cách nói là tư nhân hóa một phần) và cải cách quản trị đã liên tục thất bại trong việc đạt được mục tiêu của họ. nhà đầu tư nước ngoài nói chung đã ở lại đi từ doanh nghiệp nhà nước, viện dẫn những quan ngại về thanh khoản và thiếu quản lý doanh nghiệp minh bạch - mối quan tâm đó cũng được thể hiện trong đánh giá riêng của chính phủ về cải cách DNNN.
2016 Đại hội Đảng Cộng sản đã không có biện pháp mới để tăng tốc độ cải cách DNNN. Thay vào đó, có vẻ như, Hà Nội đang tiến hành các bước dễ dàng hơn và ít gây tranh cãi của việc thúc đẩy (hoặc ít nhất là nói lên) các tổ chức phi nhà nước. Ví dụ, trong sự bừng dậy nhân Cuộc viếng thăm của của Tổng thống Obama tháng năm 2016 - trong đó bao gồm một hội nghị được đón nhận với doanh nhân trẻ - chính phủ mới công bố kế hoạch về luật và các sáng kiến mới để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, khuyến khích cạnh tranh và thúc đẩy khởi nghiệp . Tất nhiên, một trong những cách hiệu quả nhất về kinh tế để thực hiện những điều này và nhiều mục tiêu phát triển hơn sẽ là để theo đuổi cải cách doanh nghiệp nhà nước, nhưng hai chương trình không liên kết trong cuộc thảo luận công khai.
Đưa sự nghiệp cải cách xuống đường chắc chắn là thích hợp. Tăng trưởng kinh tế ngày càng được thúc đẩy bởi các hoạt động ngoài nhà nước và có dấu hiệu sâu sắc liên kết từ doanh nghiệp trong nước với mạng lưới sản xuất toàn cầu. Những chắc chắn sẽ tăng tầm quan trọng như các nguồn vốn và công nghệ mới. Nhưng với doanh nghiệp nhà nước còn yếu kém vẫn còn các lĩnh vực quan trọng chi phối như năng lượng, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm và các dịch vụ hậu cần, thiếu vắng cải cách sẽ tiếp tục tăng chi phí khu vực tư nhân và làm giảm tốc độ tăng trưởng việc làm.
Hơn nữa tốc độ chậm chạp của cải cách thể chế cũng ném cát vào các bánh răng của các hiệp định thương mại tự do đang được đàm phán với các đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam trong quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương và châu Âu. Hai đối tác này hợp với nhau , chiếm hơn 50 phần trăm xuất khẩu của Việt Nam.
Khi cơ hội cho sự phát triển 'dễ dàng' trong việc chuyển đổi sang một nền kinh tế thị trường bị suy giảm, Việt Nam cần phải định vị mình để thúc đẩy tăng trưởng trong tương lai với công nghệ, đổi mới và vốn con người. Doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam không thích hợp để dẫn đầu sư chuyển đổi này. Vì vậy, miễn là họ có thể dựa vào những người ủng hộ họ trong chính phủ để nhấn cho việc duy trì hiện trạng, họ sẽ tiếp tục làm chậm sự nỗ lực của các thành phần khác nắm lấy vai trò chủ đạo .
Ian Coxhead là giáo sư và chủ tịch Ban Nông nghiệp và Kinh tế Ứng dụng, Đại học Wisconsin-Madison.
Nguồn : https://www.eastasiaforum.org/2016/07/06/vietnams-zombie-companies-threaten-long-term-growth/