Vận có 360 năm là Thiên Vận ( ảnh hưởng bởi Mặt trời là chủ yếu ) . Địa vận hay Địa trạch vận là 180 năm ( ảnh hưởng bởi chuyển vận Mặt Trăng ) .Từ đó ,nhân nguyên ( khác với Thái dương nguyên là 129.600 năm ) là 60 năm . Một Hội còn gọi là Thái âm nguyên là 10.800 năm= 60 năm x 60 năm x 3 . Hội còn gọi là đại địa vận vì lẽ các dịch chuyển lớn về Biển ( tiến lùi ) ,Sông ,Núi .đất ( dộng đất ) nằm trong chu kỳ trong 10.800 năm.= 60 lần của vận .
VẬN của địa lý phong thuỷ tức là các yếu tố địa chính trị ,kinh tế ,môi trường sinh thái là 180 năm .Hiện nay thuộc hạ nguyên của địa vận từ 1984 ( giáp tý )đến 2043 ( quý hợi ). Về Địa lý mà nói thì Kim Đoài Phương Tây chủ trị các mối ảnh hưởng,Cấn Phương Đông bắc ( mặt trời phương bắc lạnh ) là quan trọng , Phương Nam là cần thiết .
Vậy nên Phương Tây Mỹ và âu châu nhờ cái vận khí của nguyên mà khiến Liên Xô gần Bắc cực phải tan rả ,Trung Hoa nhờ vừa nằm hướng Đông ,có một phần lớn hướng Bắc ,lại có cao nguyên duyên hải phương Nam nên đang dần tranh bá đồ Vương của thế giới có vai trò quan trọng toàn cầu .
Thế giới đến 2044 rỏ là Tam Vương . Đế đã bắt dầu suy rồi và đang cố gắng tìm cách duy trì hồi phục.Trong triều đã tam phân lục ý .Ngoài thiên hạ thì loạn .Nguyên Nhị đế tuy đã tàn nhưng vẫn cầm búa ( hạt nhân ) đứng giữa triều mà la lối ,thực hiện các hành vi bởi hoài niệm quá khứ mặc cho trong bụng chỉ còn mấy vụn bánh mì .
Nguyên Nhất Đế tâm thần bấn loạn mà tay phải cầm búa hạt nhân tay trái cầm thẻ dolla mà cai quản thiên hạ động loạn .
Nước Việt Nam chẳng qua ,nay mới tạm vào được mức là hầu quốc thôi . Trong gần 200 nước chỉ có 13 hầu mà Việt đứng vào đấy thật là lạ .Kinh tế thì chỉ hơn 10 nước ,Quốc phòng khoảng 20 nước hàng đầu . Vậy chăng do bởi truyền thống đánh giặc giử nước mà có ngôi vị mà thôi .Nếu kinh tế mà hơn tầm 20 nước GDP cở 600 tỷ USD /năm (dầu có vay mượn 150% GDP )thì với 365000km2 đất trên bờ cộng với 1.800.000km2 biển,đảo lãnh hải – không tranh chấp và đang tranh chấp -cùng với thế vị toàn khu vực Đông dương ,Đông Nam Á thì khoảng vào nằm 2024 giữa Hạ nguyên Việt Nam có thể liệt vào hàng Bá trở thành Cửu Bá :Nhật ,Đức, Anh , Pháp,Ấn , Hàn Brazil. Ả rập ,Việt .
Trong đó Ngủ Đại bá : Nhật ,Đức, Anh , ,Ấn, Pháp có lực 8-9/10 so với Tam Vương thậm chí vượt xa Nguyên nhị Đế về kinh tế và vượt trội Tam Vương về quốc phòng và công nghệ . Hai Bá mà ngồi với nhau là một Vương phải trọng .Nhị vương tụ hội thì các bá phải tỏ ra phục các hầu phải tuân .
Việt Nam thành bá chẳng qua do vị trí địa chính trị và quốc phòng là chánh yếu .Cơ cấu Quốc Phòng và hải quân ,kinh tề Biển sẽ tầm 30% GDP vào 2030 .
Cuối Kỷ 20 đầu kỷ 21 ,Thế giới lưỡng cực tan vở .Âm dương bất cân bằng . Rỏ ra âm nhu thuận trùm lên cô dương như cây cổ thụ già cỗi trơ gốc rễ .Âm cực mà đừng đầu là Mỹ dùng phép Càn khôn thị trường tâm pháp sau rốt thu hết nội công của Dương cực là Liên Xô đến mức cân hư cốt mục ,lại dùng Thất âm đảo mạch làm cho tâm thần hốt hoảng bất định tự phế vỏ công .
30 năm thượng ngươn là vậy .
Sau 30 năm thì Ấm thịnh vượng bắt đầu tán . Dương từ chổ không lại tụ .Âm Trưởng khởi hoại suy Dương khởi thành .Cho nên khủng khoảng cấu trúc toàn diện 2008 là vậy .
đầu 2015 Người ta nói nay đã bước sang trang mới .Đó phải chăng là hư ngôn sáo ngử ,là dân tuý …
Còn ISIS ví như giặc khăn vàng ,còn ferugon ,còn Bắc Triều tiên ,Iran ,còn Ukraine ..là dấu hiệu đảo điên của thế giới .
Dân chủ , Tôn giáo ,Dân tộc … Hoà Bình vẫn mãi mãi vừa là khát vọng thật sự của con người vừa là ngọn cờ ,chiêu bài xách động hữu hiệu nhất của các thế lực âm dương đã và đang chi phối cai quản trái đất .
Thiên hạ đại loạn . cỏ dại cứ theo gió mưa mà mọc lên khắp châu lục .Âm nhu không che chuyễn nổi loạn . Loạn có âm có dương vào tới huyệt phủ lậm tới tâm mạch nước Mỹ . Xuất hiện một tiềm cực mới là Trung Hoa . Vừa Dương Vừa Âm. Ẩn ẩn hiện hiện . Vừa chuyên chính vừa thị trường .Vừa đỏ vừa xanh .
Thế giới rỏ ra là Tam Vương là Mỹ Nga Tàu . Thất Bá : ,Nhật ,Đức, Anh , Pháp,Ấn , Brazil. Ả rập còn lại chỉ là Thập tam hầu Tây ban nha ,Mexico,Ý ,Do thái , Thuỵ sĩ ,Hàn ,Iran ,Indo, Nam Phi ,Thổ nhĩ Kỳ ,Canada ,Úc,Việt Nam .
Kinh tế VN đứng thứ 22 vào 2050
Dự báo phát triển kinh tế của PwC cho giai đoạn 2030 và 2050 đánh giá Việt Nam
nằm trong số 22 nền kinh tế có GDP lớn nhất.
Năm 2014, Việt Nam đứng thứ 32 về xếp hạng GDP theo thống kê của IMF. Với đà tăng trưởng dự kiến từ 4.5-5%, Việt Nam sẽ đứng thứ 28 vào năm 2030 và đến năm 2050 sẽ nằm ở vị trí 22, đứng sau Thái Lan (21) và Philippines (20).
Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng ở mức 5,93% trong cả năm 2014, theo số liệu được Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra trong báo cáo mới nhất.
Mức tăng trưởng trên cao hơn so với chỉ tiêu 5,8% được chính phủ đề ra trong năm nay.
Cùng với Nigeria, Việt Nam được xem là nằm trong số các nền kinh tế phát triển nhanh nhất từ nay tới 2050.
Dự báo của PricewaterhouseCoopers (PwC) cho thấy đánh giá của hãng này về GDP tính theo Cân bằng sức mua.
Với tính toán này, Trung Quốc rõ ràng sẽ là nền kinh tế lớn nhất thế giới vào năm 2030 trong khi Ấn Độ sẽ tranh giành vị trí thứ hai với Hoa Kỳ vào năm 2050.
Trong khi đó Anh sẽ bị loại ra ngoài nhóm 10 nước có nền kinh tế lớn nhất vào năm 2050, xếp thứ 11.
Vị trí thứ 10 vào 2050 thuộc về Đức, hiện đang đứng thứ 5, tức là sẽ bị tụt 5 hạng.
Yếu tố TPP
Một số nhà quan sát mới đây cho rằng Việt Nam đang đi đúng hướng để chuẩn bị cho việc gia nhập Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Đại diện Thương mại của Hoa Kỳ, Mike Froman, cuối tháng trước nói biết "các bên đang tập trung vào việc chốt lại TPP ... chỉ trong ít tháng tới".
Ông Kevin Snowball, Giám đốc Điều hành Quỹ tài sản PXP tại Việt Nam, cho rằng dù đang có một số khó khăn về ngắn hạn, nền kinh tế Việt Nam đã sẵn sàng để phát huy những lợi ích của TPP về dài hạn.
"Việt Nam là nước sẽ hưởng lợi nhiều nhất từ TPP và họ muốn chốt lại càng nhanh càng tốt. Vì vậy họ đang thúc đẩy tất cả mọi thứ nhanh nhất có thể."
Ông Snowball cho rằng bất chấp một số bất lợi ngắn hạn, Việt Nam đang đi đúng hướng để tận dụng những ích lợi mà TPP mang lại.
"Tôi nghĩ tình hình nền kinh tế nội địa không tốt như mảng xuất khẩu. Nhưng với việc giá dầu giảm, nhiều người đang hy vọng rằng nhu cầu nội địa sẽ bắt đầu quay trở lại," ông nói.
Mỹ, Trung, Nga đang chơi bài gì ở Biển Đông?
Mỹ tiếp tục khẳng định vai trò siêu cường duy nhất và duy trì ảnh hưởng ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Trung Quốc sốt ruột vứt bỏ chiến lược giấu mình chờ thời, Nga chẳng chịu khoanh tay đứng ngoài.
Mỹ, Trung, Nga đang chơi bài gì ở Biển Đông?
Mỹ tiếp tục khẳng định vai trò siêu cường duy nhất và duy trì ảnh hưởng ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Trung Quốc sốt ruột vứt bỏ chiến lược giấu mình chờ thời, Nga chẳng chịu khoanh tay đứng ngoài.
Sang thế kỷ 21, trọng tâm dân số và kinh tế đã chuyển sang châu Á và các trung tâm dân cư lớn được ngăn cách bởi lãnh hải hơn là lãnh thổ. Chiến tranh trên đất liền ảnh hưởng tới dân thường trong khi xung đột trên biển có thể chỉ đơn giản là những phép tính toán về cán cân giữa các bên.
Kẻ mạnh làm những gì đủ sức, kẻ yếu phải chịu
Robert D. Kaplan, chuyên gia cao cấp của Trung tâm An ninh Mỹ Mới và cũng là thành viên của Ủy ban Chính sách Quốc phòng thuộc Bộ quốc phòng Mỹ nhận định căng thẳng trên Biển Đông không nhất thiết sẽ dẫn tới xung đột. Tuy nhiên, Trung Quốc sẽ theo phương châm: "Kẻ mạnh làm những gì họ đủ sức làm và kẻ yếu phải hứng chịu những gì họ phải hứng chịu”.
|
Thủy quân lục chiến Trung Quốc tập trận chiếm đảo. |
Cuộc đấu tranh giành ưu thế ở Tây Thái Bình Dương không nhất thiết liên quan tới xung đột vũ trang mà gần như sẽ xảy ra một cách thầm lặng trên những vùng biển trống với tình trạng dần chấp nhận sức mạnh kinh tế và quân sự tăng chậm và chắc mà các nhà nước có được trong suốt quá trình lịch sử.
Vùng biển rộng lớn ở Đông Á cũng là rào cản đối với các cuộc chiến khi mà tốc độ nhanh nhất của tàu chiến hiện chỉ đạt 35 hải lý. Đây là điều khiến thế kỷ 21 có nhiều cơ hội tránh được đại chiến so với thế kỷ 20. Tranh chấp trên Biển Đông không hề mang tính triết lý mà chỉ đơn giản là logic tương quan lực lượng và đặc biệt là chủ nghĩa dân tộc. Sự hiện diện của Mỹ tại Châu Á – Thái Bình Dương đang giúp giữ nguyên hiện trạng trên biển.
Mỹ sẽ vẫn giúp đảm bảo hiện trạng "không dễ dàng” tại Biển Đông trong thời gian trước mắt và "giới hạn sự hung hăng của Trung Quốc ở mức chủ yếu trên bản đồ”. Vị trí của Trung Quốc ở vùng Biển Đông hiện nay tương tự như vị trí của Mỹ ở vùng biển Caribe hồi thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Biển Đông là sân sau của Ấn Độ Dương, nơi Trung Quốc cũng muốn có sự hiện diện hải quân để bảo vệ đường vận chuyển nhiên liệu từ Trung Đông.
Sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc và vị thế vai trò của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương có thể là nguồn gây bất ổn khi hai siêu cường này có xung đột về lợi ích. Mỹ nên hướng vai trò của họ ở châu Á tới sự cân bằng, thay vì áp đảo.
Biển Đông không phải là hồ của Trung Quốc
Kim Holmes, cựu Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ và là Phó Chủ tịch Heritage Foundation phân tích: Việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với gần như toàn bộ vùng biển và đảo tại Biển Đông không phải là điều mới mẻ. Tuy nhiên, đáng ngại là gần đây Bắc Kinh đã trở nên hung hăng hơn khi nước này nhiều lần xâm phạm vào vùng Philippines, Việt Nam tuyên bố chủ quyền.
Trung Quốc không chỉ coi Biển Đông đơn giản là vùng đặc quyền mà còn coi đây là vấn đề lãnh thổ. Hải quân Trung Quốc trước đây tập trung vào Đài Loan thì nay có thêm mục đích nữa là đảm bảo an ninh vùng biển gần với các đảo của Nhật Bản, dọc theo chuỗi Ryukus, qua Đài Loan và Philippines tới eo biển Malacca, trong đó bao gồm cả Biển Đông.
Nhằm đạt được mục tiêu trên, Trung Quốc cần hạn chế cánh tay của hải quân Mỹ, không cho tiếp cận với vùng biển quốc tế. Nếu đạt được mục tiêu này, Mỹ và các lực lượng khác sẽ khó trợ giúp Đài Loan, Nhật và Philippines một khi bị tấn công.
|
Tàu chiến hạm đội Thái Bình Dương của hải quân Nga cập cảng Tiên Sa trong chuyến thăm Việt Nam, tháng 5/2011. |
Mặc dù vẫn còn mạnh mẽ, hải quân Mỹ có vẻ đang yếu dần đi và Trung Quốc hiểu điều này. Bên cạnh đó, Biển Đông, Hoa Đông và Hoàng Hải gần với lãnh thổ Trung Quốc hơn. Do vậy, hải quân Trung Quốc có thể tập trung vào việc kiểm soát các vùng biển lận cận.
Mỹ không thể để Trung Quốc gây nguy hiểm tới cam kết của mình với đồng minh hoặc can thiệp vào quyền đi lại tại vùng biển quốc tế. Kim Holmes nói Trung Quốc không có quyền coi Biển Đông là của họ. Vật cản chủ yếu đối với tham vọng của Trung Quốc là hải quân Mỹ.
Cho dù tuyên bố của Trung Quốc về các vùng biển gần sẽ gây ra sự đối đầu với Mỹ hay không vẫn là câu hỏi bỏ ngỏ. Tuy nhiên, Trung Quốc cần biết rằng bất cứ nỗ lực nào của họ nhằm thay đổi lại luật lệ và biến khu vực này thành vùng đặc quyền của mình sẽ gặp phải sự chống đối của Mỹ.
Nga mới là mối họa lớn của Trung Quốc tại Biển Đông
Dưới đầu đề như trên, mạng Liên hợp tảo báo (Trung Quốc) từng đăng bài của Tiết Lý Thái, nghiên cứu viên Trung Quốc tại Trung tâm an ninh và hợp tác quốc tế Đại học Stanford (Mỹ), cho rằng chính sách của Mỹ có lợi cho việc duy trì bảo vệ lợi ích hiện trạng tại quần đảo Trường Sa của những người nhanh chân đến trước, khiến những kẻ đến sau ở vào thế khó, đành bó tay hết cách, cũng lại phải hướng đến đảm bảo hòa bình, ổn định ở khu vực Biển Đông.
Ngoài các nước ASEAN thì kẻ nhanh chân đến trước tại Biển Đông lại là Nga chứ không phải Mỹ. Trong thập kỷ 1980 của thế kỷ trước, Liên Xô cũ kết hợp với Việt Nam thành lập công ty góp vốn, cùng liên thủ khai thác dầu khí ở Biển Đông.
Tờ báo Trung Quốc nhận định Nga hợp tác với Việt Nam vừa có lợi ích an ninh vừa có lợi ích kinh tế, bởi Nga được chia sẻ lợi ích kinh tế to lớn tại Biển Đông. Nga đã trở thành chỗ dựa lớn của cộng đồng kinh tế do Việt Nam liên kết với các cường quốc trên thế giới tạo nên trên vấn đề Biển Đông. Và như vậy dễ thấy rằng tại sao trong những năm gần đây Nga lại đồng ý bán cho Việt Nam những trang bị vũ khí đời mới lợi hại chuyên dùng cho xung đột tại Biển Đông với mức ưu đãi lớn hơn nhiều so với Trung Quốc. Cuối năm 2011, loạt máy bay chiến đấu Su hoàn tất giao hàng. Cuối năm 2013, ngoài các tàu ngầm lớp Kilo, những vũ khí đời mới lợi hại này sẽ bước đầu hình thành sức chiến đấu. Nga và Ấn Độ còn đang phụ trách việc đào tạo sĩ quan cho các tàu ngầm này.
Liên hợp tảo báo phân tích thái độ can thiệp của Mỹ là nhằm tăng cường trao đổi qua lại với ASEAN, Nhật Bản và Úc, còn việc ủng hộ ASEAN thì vẫn xoay quanh đồng minh truyền thống là Philippines, việc ủng hộ một số quốc gia khác như Việt Nam chủ yếu vẫn chỉ dừng lại trên bề mặt ngoại giao. Còn Nga thì nâng đỡ Việt Nam bằng hành động thực tế. Hiện nay, Nga ngoài mặt vẫn giữ thái độ tươi cười với Trung Quốc, trong ngoại giao thì "nói ý cay bằng lời ngọt”, trong hành động thì chỉ làm không tuyên bố.
Tờ báo này quả quyết theo diễn biến tình hình Biển Đông hiện nay, một khi xảy ra xung đột thì toàn bộ vũ khí sắc bén mà quân đội Việt Nam sử dụng là của Nga chứ không phải của Mỹ.
Mỹ lo bị đẩy khỏi Biển Đông và Đông Á
Trang mạng Liên hợp Buổi sáng (Singapore) nhắc lại tuyên bố của Đô đốc Mullen: "Mỹ sẽ không rời khỏi Biển Đông. Mấy chục năm lại đây, sự có mặt lâu dài của chúng tôi ở khu vực này là rất quan trọng đối với các đồng minh của chúng tôi và sẽ tiếp tục là như vậy”. Đúng như những gì Mullen nói Mỹ đã sớm có mặt ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Cách đây không lâu, khi đoàn đại biểu hai nước tiến hành hội đàm ở Hawaii, phía Mỹ còn ưu ái sắp xếp cho phía Trung Quốc thăm quan Đài tưởng niệm chiến hạm Arizona. Dụng ý của phía Mỹ không ngoài việc muốn chứng minh với các vị khách Trung Quốc rằng sự tồn tại của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương là có căn cứ lịch sử.
Không ai có thể phủ nhận được những cống hiến lịch sử của Mỹ đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Tới nay, lại càng không ai có thể coi nhẹ sự tồn tại của Mỹ ở khu vực này. Nhưng Trung Quốc cho rằng điều đó không có nghĩa là Mỹ có thể muốn làm gì cũng được. Trung Quốc chỉ hy vọng Mỹ tiếp tục phát huy vai trò giữ gìn hòa bình ổn định, bảo vệ chính nghĩa ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương như đã làm trong lịch sử.
Nỗi sợ hãi thực sự của Mỹ là việc Trung Quốc tìm cách buộc Mỹ rời khỏi Biển Đông và toàn bộ khu vực Đông Á. Xuất phát từ suy nghĩ này, Mỹ liền xuất hiện trong tranh chấp Biển Đông với vai trò của người thứ ba "công bằng”. Xem xét tình hình hiện nay, người ta có thể rút ra một số đánh giá sau:Thứ nhất, trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ Biển Đông, Mỹ thông thường không thể giao chiến với tư cách của một nước liên quan trực tiếp. Thứ hai, do thực lực của Trung Quốc tương đối lớn và Trung Quốc và Mỹ tồn tại sự cạnh tranh chiến lược, nên Mỹ thông thường nghiêng về phía nước nhỏ trong khu vực có tranh chấp với Trung Quốc. Thứ ba, trong bối cảnh không thể ra mặt với danh nghĩa một bên tranh chấp, biện pháp khả thi nhất để Mỹ dính líu vào cuộc đấu ở Biển Đông chính là mượn cớ quan tâm sâu sắc tới an ninh và tự do đi lại trong khu vực này. Thứ tư, do bản thân không dính líu tới tranh chấp chủ quyền Biển Đông, nên Mỹ chỉ có thể can dự vào vấn đề này trong tư cách là "kẻ hòa giải” - nhân vật thứ ba.
Bốn điểm nêu trên vừa là những điều kiện cơ bản mà Mỹ có cũng như vị thế cơ bản mà Mỹ đứng trong cuộc đấu Biển Đông, vừa là bố cục cơ bản mà cuộc cạnh tranh chiến lược Trung-Mỹ phải triển khai. Trong những điểm nêu trên, Trung Quốc đã nhận thấy sự khác nhau về vị thế của Bắc Kinh và Washington trong vấn đề Biển Đông, lấy đó làm xuất phát điểm đề ra phương án hành động của mình.
Báo Trung Quốc: Nga mới là mối họa lớn của TQ tại Biển Đông
Bài trên Liên hợp tảo báo của Trung Quốc cho rằng Nga mới là mối họa lớn của Trung Quốc tại Biển Đông. Chính Nga là cường quốc bên ngoài đến Biển Đông sớm nhất chứ không phải Mỹ. Nga tích cực đầu tư thăm dò khai thác dầu khí tại Biển Đông, ký nhiều hợp đồng bán vũ khí hiện đại, bao gồm tàu ngầm, máy bay, cho Việt Nam.
Tháng 7/2010, Ngoại trưởng Mỹ Clinton phát biểu nhấn mạnh các nước cần giải quyết tranh chấp Biển Đông bằng biện pháp hòa bình. Sau đó, Tổng thống, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ lần lượt có phát biểu tỏ đồng thuận và việc đó đã trở thành chính sách đã rồi của Mỹ đối với Biển Đông. Chính sách của Mỹ tất nhiên có lợi cho việc duy trì bảo vệ lợi ích đã rồi tại quần đảo Trường Sa của những kẻ nhanh chân đến trước, khiến những kẻ đến sau ở vào thế bị kìm kẹp, ngăn trở, đành bó tay hết cách, cũng lại phải hướng đến đảm bảo hòa bình, ổn định ở khu vực Biển Đông.
Nga nhanh chân đến trước Mỹ: Trên thực tế, Mỹ cũng là kẻ đến sau tại Biển Đông. Ngoài các nước ASEAN thì kẻ nhanh chân đến trước tại Biển Đông lại là Nga chứ không phải Mỹ.
Trong thập kỷ 80 của thế kỷ trước, Liên Xô cũ kết hợp với Việt Nam thành lập công ty góp vốn, cùng liên thủ khai thác mỏ Bạch Hổ ở Biển Đông, sản lượng khai thác chiếm một nửa tổng sản lượng dầu thô của Việt Nam; đến nay, đây vẫn là mỏ dầu lớn nhất của Việt Nam.
Theo thống kê, đến nay Nga đã trở thành đối tác hợp tác nước ngoài lớn nhất của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam. Các công ty dầu mỏ phương Tây khác như Exxon Mobil, BP, TOTAL những năm gần đây mới góp vốn với Việt Nam khai thác dầu khí.
Nga hợp tác với Việt Nam vừa có lợi ích an ninh vừa có lợi ích kinh tế, bởi Nga được chia sẻ lợi ích kinh tế to lớn tại Biển Đông, Nga đã trở thành chỗ dựa lớn nhất của cộng đồng kinh tế do Việt Nam liên kết với các cường quốc trên thế giới tạo nên trên vấn đề Biển Đông. Và như vậy dễ thấy rằng tại sao trong những năm gần đây Nga lại đồng ý bán cho Việt Nam những trang bị vũ khí đời mới lợi hại chuyên dùng cho xung đột tại Biển Đông với mức ưu đãi lớn hơn nhiều so với TQ.
Gần dây, VN đặt mua của Nga những hệ thống vũ khí tiên tiến, bao gồm 6 tàu ngầm lớp Kilo 636, 13 máy bay chiến đấu Su-27, 20 máy bay Su-30 và nhiều tên lửa đối biển, radar…. Vũ khí mà Nga bán cho VN có tính năng tiên tiến hơn hẳn các vũ khí bán cho TQ trước đây, tỷ lệ giữa tính năng và giá cả cũng cao hơn. Cuối năm 2011, loạt máy bay chiến đấu Su sẽ hoàn tất giao hàng. Cuối năm 2013, ngoài các tàu ngầm lớp Kilo, những vũ khí đời mới lợi hại này sẽ bước đầu hình thành sức chiến đấu.
6 chiếc tàu ngầm lớp Kilo là “tuyệt chiêu” trong hải chiến Trường Sa và cũng được giao hàng lần lượt từ cuối năm 2011 và giao hết trong vòng 5 năm. Trong khi Nga đang chế tạo tàu ngầm thì VN đã đào tạo đồng bộ các sỹ quan làm việc trên những chiếc tàu ngầm đó, hiện Nga và Ấn Độ đang phụ trách việc đào tạo. Từ đó có thể thấy, các tàu ngầm mới và lợi hại này sẽ nhanh chóng hình thành sức chiến đấu và hoạt động khắp nơi thuộc vùng Biển Đông và biển phía Đông TQ, tạo ra sự đe dọa khá lớn đối với các nước láng giềng trong đó có TQ, nhằm đảm bảo an toàn cho việc khai thác các mỏ dầu của VN.
Nói về lợi ích thực tế trong cấu trúc hiện nay ở Biển Đông, Mỹ là kẻ đến sau và không bằng Nga. Nếu nhìn vấn đề một cách cô lập thì việc Mỹ có mặt ở khu vực Biển Đông là không hề có lợi ích chiến lược to lớn về an ninh và kinh tế. Theo đánh giá, sở dĩ Mỹ ủng hộ ASEAN chống lại TQ trong vấn đề Biển Đông, xét ở góc độ chiến lược thì chủ yếu là để tránh xảy ra cục diện sau khi TQ trỗi dậy sẽ thách thức sự hiện diện quân sự của Mỹ tại khu vực CÁ - TBD, ra tay khi còn sớm để kiềm chế sức mạnh của TQ tiến xuống phía Nam. Còn việc đảm bảo cho máy bay quân sự, tàu thuyển của Mỹ tự do lưu thông giữa TBD, Ấn Độ Dương hay như việc giữ ổn định tình hình Biển Đông thì cũng chỉ là một cách nói.
Cách tiếp cận của Nga ở tầm chiến lược khác xa so với Mỹ. Cách tiếp cận tầm chiến lược nêu trên của Mỹ đều thích hợp với Nga. Ngoài ra, Nga và VN còn có tình hữu nghị truyền thống, như năm 1979, trong chiến tranh biên giới Trung - Việt và “cuộc chiến lưỡng sơn” kéo dài 10 năm sau đó, Liên Xô cũ là cường quốc duy nhất ủng hộ VN chống TQ. Hơn nữa Nga lại là nước có lợi ích kinh tế thiết thực nhất tại Biển Đông. Biển Đông giống như một kho báu, bằng việc hợp tác lâu dài với VN, những khoản ngoại tệ khổng lồ mà Nga kiếm được từ đó dường như không bao giờ cạn.
Ngoài ra, từ chính sách ngoại giao khác nhau của hai nước Nga, Mỹ đối với các nước quanh Biển Đông cũng có thể cảm nhận thấy Nga và Mỹ có lập trường khác nhau đối với vấn đề Biển Đông, từ đó có thể lần ra manh mối. Thái độ can thiệp của Mỹ là nhằm tăng cường trao đổi qua lại với ASEAN, NB và Australia, còn việc ủng hộ ASEAN thì vẫn xoay quanh đồng minh truyền thống là PLP, việc ủng hộ một số quốc gia khác như VN chủ yếu vẫn chỉ dừng lại trên bề mặt ngoại giao và đe dọa. Cùng trên vấn đề Biển Đông nhưng chính sách của Nga lại khác. Nga cũng ủng hộ gián tiếp các nước ASEAN nhưng dành viện trợ thực tế cho VN.
Tóm lại, ngoài việc tăng cường hợp tác với VN về ngoại giao và kinh tế thì Nga còn nâng đỡ VN bằng hành động thực tế. Hiện nay, Nga ngoài mặt vẫn giữ thái độ tươi cười với TQ, trong ngoại giao thì “nói ý cay bằng lời ngọt”, trong hành động thì chỉ làm không nói. Nga giống như “con vịt đạp nước”, trên mặt nước thì dường như không có động tĩnh gì nhưng dưới nước lại giở võ chân.
Đây cũng là nguyên nhân tại sao trong khi VN tăng cường “chuẩn bị đấu tranh quân sự” thì toàn bộ vũ khí cho hải chiến lại lấy từ Nga chứ không phải Mỹ và Mỹ lại chỉ gián tiếp ủng hộ VN về mặt đe dọa chiến lược. Đây là chỗ khác nhau cơ bản về mức độ ủng hộ của Mỹ và Nga cho VN trong tranh chấp ở Biển Đông.
Theo diễn biến tình hình Biển Đông hiện nay, một khi VN và TQ xảy ra một trận hải chiến thì toàn bộ vũ khí sắc bén mà quân đội VN sử dụng để giết hại quân giải phóng TQ là của Nga chứ không phải của Mỹ./.
Mỹ lo bị đẩy khỏi Biển Đông và Đông Á
Trang mạng Liên hợp Buổi sáng (Singapore) nhắc lại tuyên bố của Đô đốc Mullen: "Mỹ sẽ không rời khỏi Biển Đông. Mấy chục năm lại đây, sự có mặt lâu dài của chúng tôi ở khu vực này là rất quan trọng đối với các đồng minh của chúng tôi và sẽ tiếp tục là như vậy”. Đúng như những gì Mullen nói Mỹ đã sớm có mặt ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Cách đây không lâu, khi đoàn đại biểu hai nước tiến hành hội đàm ở Hawaii, phía Mỹ còn ưu ái sắp xếp cho phía Trung Quốc thăm quan Đài tưởng niệm chiến hạm Arizona. Dụng ý của phía Mỹ không ngoài việc muốn chứng minh với các vị khách Trung Quốc rằng sự tồn tại của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương là có căn cứ lịch sử.
Không ai có thể phủ nhận được những cống hiến lịch sử của Mỹ đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Tới nay, lại càng không ai có thể coi nhẹ sự tồn tại của Mỹ ở khu vực này. Nhưng Trung Quốc cho rằng điều đó không có nghĩa là Mỹ có thể muốn làm gì cũng được. Trung Quốc chỉ hy vọng Mỹ tiếp tục phát huy vai trò giữ gìn hòa bình ổn định, bảo vệ chính nghĩa ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương như đã làm trong lịch sử.
Nỗi sợ hãi thực sự của Mỹ là việc Trung Quốc tìm cách buộc Mỹ rời khỏi Biển Đông và toàn bộ khu vực Đông Á. Xuất phát từ suy nghĩ này, Mỹ liền xuất hiện trong tranh chấp Biển Đông với vai trò của người thứ ba "công bằng”. Xem xét tình hình hiện nay, người ta có thể rút ra một số đánh giá sau: Thứ nhất, trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ Biển Đông, Mỹ thông thường không thể giao chiến với tư cách của một nước liên quan trực tiếp. Thứ hai, do thực lực của Trung Quốc tương đối lớn và Trung Quốc và Mỹ tồn tại sự cạnh tranh chiến lược, nên Mỹ thông thường nghiêng về phía nước nhỏ trong khu vực có tranh chấp với Trung Quốc. Thứ ba, trong bối cảnh không thể ra mặt với danh nghĩa một bên tranh chấp, biện pháp khả thi nhất để Mỹ dính líu vào cuộc đấu ở Biển Đông chính là mượn cớ quan tâm sâu sắc tới an ninh và tự do đi lại trong khu vực này. Thứ tư, do bản thân không dính líu tới tranh chấp chủ quyền Biển Đông, nên Mỹ chỉ có thể can dự vào vấn đề này trong tư cách là "kẻ hòa giải” - nhân vật thứ ba.
Bốn điểm nêu trên vừa là những điều kiện cơ bản mà Mỹ có cũng như vị thế cơ bản mà Mỹ đứng trong cuộc đấu Biển Đông, vừa là bố cục cơ bản mà cuộc cạnh tranh chiến lược Trung-Mỹ phải triển khai. Trong những điểm nêu trên, Trung Quốc đã nhận thấy sự khác nhau về vị thế của Bắc Kinh và Washington trong vấn đề Biển Đông, lấy đó làm xuất phát điểm đề ra phương án hành động của mình.