TIN TỨC

fanpage

Thống kê truy cập

  • Online: 223
  • Hôm nay: 198
  • Tháng: 1621
  • Tổng truy cập: 5245625
Chi tiết bài viết

Mua bán đất bằng giấy tay: Người mua vẫn có thể được công nhận quyền sử dụng

Mua bán đất bằng giấy tờ viết tay, sau nhiều năm chủ đất cũ bỗng dưng “trở quẻ” không chịu làm thủ tục sang tên và muốn đòi lại diện tích đất đã bán. Trường hợp này, bên mua vẫn có thể được công nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ).

Khi mua đất người dân phải đến phòng công chứng, hoặc UBND cấp thẩm quyền để chứng thực, nhằm bảo đảm quyền lợi của mình. Trong ảnh: Người dân làm thủ tục sang nhượng đất tại Văn phòng một cửa TP. Vũng Tàu. Ảnh: LAM PHƯƠNG
Khi mua đất người dân phải đến phòng công chứng, hoặc UBND cấp thẩm quyền để chứng thực, nhằm bảo đảm quyền lợi của mình. Trong ảnh: Người dân làm thủ tục sang nhượng đất tại Văn phòng một cửa TP. Vũng Tàu. Ảnh: LAM PHƯƠNG

Năm 2002, ông Trần Văn Đ. mua một thửa đất có diện tích khoảng 3.000m2 với giá 17 triệu đồng của bà Trương Thị V. Thửa đất này đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) chung với các thửa đất khác của bà V. vào năm 1998. Sau khi hai người lập giấy mua bán đất viết tay với nhau, ông Đ. trả đủ tiền cho bà V. và nhận đất để trồng cây và làm nhà ở sinh sống ổn định. Ông Đ. còn được cấp sổ hộ khẩu từ thời điểm mua đất. Trong quá trình sử dụng đất, giữa ông Đ. và bà V. không có tranh chấp. Đến khi ông Đ. yêu cầu bà V. làm thủ tục sang tên “sổ đỏ” thửa đất này thì bà V. không thực hiện, muốn lấy lại đất và trả lại tiền cho ông Đ. Trước sự bất tín của chủ đất cũ, hai bên đã khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Tân Thành. Hiện tại, vụ việc đang được Tòa án nhân dân huyện Tân Thành thụ lý và sẽ đưa ra xét xử trong thời gian tới. Tuy nhiên, với ông Đ. đây quả là một bài học đắt giá. “Tôi không ngờ sau 12 năm sinh sống ổn định trên mảnh đất này, bây giờ chủ đất cũ lại có thể trở mặt như vậy”- ông Đ. nói.

Theo Luật sư Dương Thanh Thuận, Giám đốc Công ty Luật hợp danh Dương Chính (TP.Bà Rịa), trên thực tế có nhiều trường hợp mua bán đất bằng giấy viết tay, dẫn đến tranh chấp, trong đó trường hợp bị đòi lại đất như ông Đ. là khá phổ biến.

Căn cứ Điều 127 Luật Đất đai 2003: “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của công chứng nhà nước; Trường hợp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ của hộ gia đình, cá nhân thì được lựa chọn hình thức chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn nơi có đất”, thì trường hợp chuyển nhượng đất giữa ông Đ. và bà V. chưa tuân thủ về hình thức của hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ. Tuy nhiên, căn cứ theo quy định tại Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao: “Đối với hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ mà không có công chứng, hoặc chứng thực của UNND cấp có thẩm quyền, nếu sau khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm, đã làm nhà kiên cố..., bên chuyển nhượng không phản đối và cũng không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai theo các quy định của Nhà nước”, thì hợp đồng này cũng được Tòa án công nhận.

Mặc khác, căn cứ vào Điều 412 Bộ luật Dân sự quy định nguyên tắc thực hiện hợp đồng dân sự là phải trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau. Do vậy, tuy các bên mua bán đất bằng giấy tay nhưng cũng được xem là hợp đồng dân sự. Bên bán đất không thể chỉ dựa vào lý do hợp đồng không có công chứng, chứng thực mà bất chấp quyền lợi của người mua đất.

Theo phân tích của giới luật sư, nguyên nhân dẫn đến vụ tranh chấp đất giữa ông Đ. và bà V. là do cách hiểu pháp luật chưa đúng từ phía người bán đất là bà V. Mặc dù căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành, ông Đ. có thể được công nhận QSDĐ, nhưng cũng không loại trừ trường hợp hợp đồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu vì lý do không có công chứng, chứng thực. Khi đó, sẽ căn cứ lỗi của các bên để buộc bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại cho bên kia theo quy định pháp luật.

 

Từ ngày 1-7- 2014, hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ được quy định tại khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 như sau: Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ phải được công chứng hoặc chứng thực. Riêng đối với hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ đất giao kết với tổ chức hoạt động kinh doanh bất động sản thì không bắt buộc phải công chứng, hoặc chứng thực.

 

Hỏi: Nhà cháu mua đất năm 2001 chỉ có giấy viết tay, nay nhà cháu muốn làm sổ đỏ có được không và phải làm thế nào?

Năm 2001, nhà cháu có mua 1 mảnh đất rộng khoảng 120m2 trị giá 42 triệu đồng, đã có bản viết tay về giấy chứng nhận chuyển nhượng đất ở đất này là đất thổ cư. Khi làm sổ đỏ thì bên bán không chịu đưa sổ ra chính quyền địa phương xã để tách sổ mà còn đòi phải cho tiền mới chịu ký giấy để tách sổ đỏ.

Năm 2004 giá đất tăng cao nhà cháu có ý định bán với giá 300 triệu đồng thì người ta đòi chia cho 1 nửa tiền. Bố mẹ cháu tức giận không bán nữa. Sau đó, họ đòi nhà cháu cho 50 triệu đồng mới kí. Bố mẹ cháu xuống nước đem cho tiền thì họ lại đổi ý không kí.

Đến năm 2006 nhà cháu quyết định xây nhà lên để ở và hàng năm vẫn đóng tiền thuế nhà đất trên phần diện tích mình đã mua.

Vậy gia đình cháu có cách nào để có thể làm sổ đỏ nhà đất được không ạ?

Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

1. Nếu người chuyển nhượng đất cho gia đình bạn đã có một trong các loại giấy tờ theo quy định tại khoản 1, Điều 50 Luật đất đai năm 2003 (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do chinh quyền cũ cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính hoặc giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà…) và bạn đã có giấy tờ mua bán, chuyển nhượng viết tay năm 2001 thì gia đình bạn có thể xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất căn cứ vào quy định tại khoản 2, Điều 50 Luật đất đai năm 2003.

2. Nếu trường hợp sử dụng đất của gia đình bạn không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, Điều 50 Luật đất đai năm 2003 hoặc khi gia đình bạn thực hiện thủ tục xin cấp GCN QSD đất thì bên chuyển nhượng có tranh chấp thì tụ việc của gia đình bạn là tranh chấp về hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất. Gia đình bạn có quyền yêu cầu bên chuyển nhượng phải thực hiện các thủ tục chuyển nhượng để đăng ký, sang tên cho gia đình bạn. Nếu họ cố tình không thực hiện thì gia đình bạn có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết theo theo thủ tục tố tụng dân sự;

3. Nếu tranh chấp được tòa án thụ lý giải quyết, thì Tòa án sẽ căn cứ vào quy định của Luật đất đai và hướng dẫn tại tiểu mục 2.3, mục 2, phần II, Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao để giải quyết cụ thể như sau:

“2.3. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ sau này 15/10/1993

a) Điều kiện để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Theo qui định tại Điều 131, các điều từ Điều 705 đến Điều 707 và Điều 711 của Bộ luật Dân sự, khoản 2 Điều 3, Điều 30, Điều 31 của Luật Đất đai năm 1993 và khoản 1 Điều 106, điểm b khoản 1 Điều 127, khoản 1 Điều 146 của Luật Đất đai năm 2003, thì Toà án chỉ công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi hợp đồng đó có đầy đủ các điều kiện sau đây:

a.1. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có năng lực hành vi dân sự;

a.2. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoàn toàn tự nguyện;

a.3. Mục đích và nội dung của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không trái pháp luật, đạo đức xã hội;

a.4. Đất chuyển nhượng đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003;

a.5. Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện về nhận chuyển nhượng theo qui định của pháp luật;

a.6. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền.

b) Xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có đầy đủ các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.3 mục 2 này.

b.1. Đối với hợp đồng được giao kết trước ngày 01/7/2004 vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nhưng đã có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, mà có phát sinh tranh chấp, nếu từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.

b.2. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tại thời điểm giao kết vi phạm các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2, 3 mục 2 này, nhưng sau đó đã được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 mà có phát sinh tranh chấp và từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.

b.3. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nếu sau khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm, đã làm nhà kiên cố... và bên chuyển nhượng không phản đối và cũng không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo các quy định của Nhà nước về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, thì Toà án công nhận hợp đồng. Nếu bên nhận chuyển nhượng chỉ làm nhà trên một phần đất, thì Toà án công nhận phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất có nhà ở và huỷ phần hợp đồng đối với diện tích đất còn lại, buộc bên nhận chuyển nhượng giao trả phần đất đó cho bên chuyển nhượng, trừ trường hợp việc giao trả không bảo đảm mục đích sử dụng cho cả hai bên giao kết hợp đồng, đồng thời buộc các bên thanh toán cho nhau phần chênh lệch.

c) Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.

c.1. Khi xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, thì tuỳ từng trường hợp Toà án áp dụng quy định của điều luật tương ứng từ Điều 136 đến Điều 138, từ Điều 140 đến Điều 145 và Điều 146 của Bộ luật Dân sự để xác định thời hạn yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và xử lý hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.

c.2. Xác định lỗi, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Việc xác định lỗi, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thực hiện theo hướng dẫn tại điểm a và điểm b tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I của Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình"

c.3. Xác định thiệt hại.

- Khi tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu thì Toà án cần xác định thiệt hại gồm:

Khoản tiền mà bên chuyển nhượng phải bỏ ra để khôi phục lại tình trạng ban đầu của diện tích đất do bên nhận chuyển nhượng đã làm huỷ hoại đất; khoản tiền mà bên nhận chuyển nhượng đã đầu tư để cải tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng đất, giá trị công trình, tài sản, cây lâu năm... trên đất. Trong trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có thoả thuận khác về việc áp dụng biện pháp phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 379 Bộ luật Dân sự để bảo đảm thực hiện hợp đồng thì thiệt hại còn bao gồm khoản tiền chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất do các bên thoả thuận với giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm xét xử sơ thẩm hoặc các thiệt hại khác, nếu có.

- Để xác định đúng các thiệt hại nói trên, Toà án phải tiến hành định giá giá trị quyền sử dụng đất và xác định thiệt hại về đất như sau:

Nếu các đương sự không thoả thuận được về giá trị quyền sử dụng đất và giá trị thiệt hại, thì Toà án yêu cầu cơ quan chuyên môn định giá hoặc ra quyết định thành lập hội đồng định giá. Giá trị quyền sử dụng đất được xác định theo giá thị trường chuyển nhượng tại địa phương nơi đất đang tranh chấp đối với từng loại đất vào thời điểm xét xử sơ thẩm.

Trong trường hợp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có quy định giá trị quyền sử dụng đất cụ thể phù hợp với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giá thị trường tại địa phương hoặc các trung tâm giao dịch bất động sản hoạt động hợp pháp có niêm yết giá giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại địa phương vào thời điểm xét xử sơ thẩm, thì Toà án có thể căn cứ vào giá do Uỷ ban nhân dân quy định hoặc giá niêm yết của các trung tâm giao dịch để xác định giá trị quyền sử dụng đất, mà không nhất thiết phải thành lập hội đồng định giá. Trong trường hợp này cần phải có căn cứ xác định giá quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân quy định hoặc giá quyền sử dụng đất do trung tâm giao dịch bất động sản niêm yết là hoàn toàn phù hợp với giá thị trường vào thời điểm xét xử sơ thẩm.

- Trách nhiệm chịu chi phí cho việc định giá do các đương sự phải chịu chi phí tương ứng với phần nghĩa vụ của họ. Trường hợp đương sự có yêu cầu định giá lại, thì người có yêu cầu phải tạm ứng trước chi phí cho việc định giá lại và Toà án sẽ quyết định ai phải chịu chi phí định giá tuỳ thuộc vào kết quả xét xử.”.
Như vậy, căn cứ vào quy định pháp luật trên để tòa án giải quyết. Nếu tòa án công nhận hợp đồng thì bắt buộc các bên phải thực hiện. Nếu họ không sang tên cho gia đình bạn thì gia đình bạn có thể căn cứ vào bản án để làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất căn cứ vào quy định tại khoản 5, Điều 50 Luật đất đai 2003. Nếu tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì tòa án sẽ giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo quy định pháp luật nêu trên và Điều 137 Bộ luật dân sự.

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

VPLS Minh Trí  cung  cấp dịch vụ tư vấn pháp luật đất đai đến quý khách hàng nhanh chóng và hiệu quả nhất!

1. Khách hàng được tư vấn những vấn đề sau:

Tư vấn chính sách, pháp luật về đất đai và pháp luật kinh doanh bất động sản bao gồm kinh doanh phát triển khu đô thị mới, khu nhà ở, hạ tầng khu đô thị, hạ tầng khu công nghiệp, khách sạn, khu văn phòng cho thuê, các dịch vụ kinh doanh bất động sản (như môi giới, sàn giao dịch bất động sản, định giá bất động sản) …;

- Tư vấn luật và các chính sách của nhà nước về đất đai và quyền sở hữu đất đai bao gồm nhưng không giới hạn các thủ tục về đăng ký biến động quyền sử dụng đất, chuyển giao quyền sử dụng đất, xin cấp giấy chứng nhận quyền sở dụng đất, nhập và tách giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thuê đất, giải quyết các tranh chấp liên quan đến đất và tài sản trên đất....

2. Những tài liệu và thông tin cần thiết khách hàng cung cấp cho VPLS Minh Trí   Các tài liệu liên quan hay thông tin hiện có của bất động sản.

- Giấy tờ xác nhận sở hữu của bất động sản;

- Giấy tờ chứng minh nhân thân khi muốn làm các thủ tục nhất định.

3. VPLS Minh Trí  hay khách hàng tiến hành soạn thảo hồ sơ và đại diện công việc theo ủy quyền.

- Đại diện theo ủy quyền của khách hàng xem xét, giao dịch bất động sản;

- Đại diện soạn thảo hồ sơ, nộp và theo dỗi tiến trình hồ sơ khi tiến hành các thủ tục theo yêu cầu.

- Nhận kết quả và trả kết quả cho khách hàng.

4. Tiếp cận dịch vụ của VPLS Minh 

- Gửi yêu cầu dịch vụ qua Email:  dongtudhl@gmail.com , phucminh80@gmail.com

- Liên hệ với bộ phận kinh doanh - khách hàng theo hotline:  0902818158 - 0906834543 - 0906812689

5. Lý do bạn nên chọn dịch vụ của  VPLS Minh Trí 

- Chúng tôi luôn đem đến quý khách hàng những dịch vụ chất lượng với chi phí rẻ nhất

- Chúng tôi luôn tiết kiệm tối đa thời gian cho khách hàng

- Lợi ích của bạn - lợi ích của chúng tôi! Đến với VPLS Minh Trí đến với sự chuyên nghiệp

Luật sư tư vấn miễn phí

Gọi ngay
0902818158- 0906834543
0906834543
0902818158

Tin pháp luật

CÁC ĐỐI TÁC

  • Nhà Đất Phúc An Khang
  • The Diplomat
  • The NewYork Review of Book
  • CogitAsia
  • Reuters
  • Viet Studies
  • The NewYork Times
  • TIME
  • Bloomberg Bussiness