Cuộc đối đấu ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ cộng hoà tại Pari là một trong những cuộc đối đầu lý thú nhất trong lịch sử ngoại giao nhân loại. Đã đọc khá nhiều sách về cuộc đàm phán này, có rất nhiều vấn đề đáng bàn, song hôm nay chúng ta nói về ngôn ngữ của Tiến sỹ Kissinger, sau 36 năm ngày ký Hiệp định. Không bàn đến nội dung cực kỳ phức tạp của Hiệp định, tôi muốn điểm qua vài nét xung quanh ngôn ngữ đàm phán của Tiến sỹ Kissinger.
Đối với VNDCCH thì những gì chưa giành được trên chiến trường, người ta cũng không thể giành được trên bàn đàm phán. Ngoại giao phải có thực lực. Kết quả trên bàn đàm phán bao giờ cũng phản ánh thực tế trên chiến trường.
Ngôn ngữ trong đàm phán của Kissinger rất hoa mỹ, trí tuệ, hài hước, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc…
Một nhà nghiên cứu sau khi đọc các biên bản hội đàm giữa Kissinger và Chu Ân Lai, đã phải thốt lên: đây là hai nhà ngoại giao giỏi nhất trên thế giới!
Các phiên họp tại Pari, dù căng thẳng đến đâu, sau khi kết thúc, Kissinger bao giờ cũng có những câu nói đùa mà người “nghiêm trang” như Lê Đức Thọ cũng không thể nhịn được cười. Thú vị lắm!
Kissinger cho rằng Lê Đức Thọ như một thầy giáo khó tính, chuyên giảng các bài học về lịch sử VN. Quả là ngôn ngữ đàm phán của Lê Đức Thọ khác xa Kissinger, có lúc ông còn cầm bút chỉ thẳng vào mặt Kissinger hoặc đập bàn. Kissinger rất ngán ngẩm khi nghe các bài giảng về lịch sử này. Ngôn ngữ của Xuân Thuỷ có vẻ bóng bẩy hơn.
Có lần, Kissinger nói:
- Các ngài cần phân biệt tuyên truyền và đàm phán. Nếu chỉ nghe tuyên truyền, tôi đã không có mặt ở đây. Không thể đàm phán theo khuôn khổ các ngài là những nhà giáo hỏi học trò xem đã hiểu đúng lập trường của các ngài chưa.
Khi Xuân Thuỷ cho rằng Hoa Kỳ rút quân nhỏ giọt, Kissinger nói:
- Các ngài có thể điều chỉnh tốc độ rút quân của chúng tôi bằng tốc độ rút quân của các ngài (ý nói quân miền Bắc phải rút khỏi miền Nam ).
Trả lời Lê Đức Thọ về vấn đề Lào, Kissinger nói:
- Chúng tôi quan sát thấy hầu hết quân Pathet Lào đều nói tiếng Việt cả.
Ông ta nói với Xuân Thuỷ:
- Chúng tôi bất ngờ gặp phải các ông là đối phương chứ chúng tôi không lựa chọn. Nếu chúng tôi lựa chọn thì chúng tôi lựa chọn đối phương dễ tính hơn.
Nhân việc Xuân Thuỷ nói về sự sa lầy, Kissinger kể câu chuyện sau:
“ Có một người hớt hơ hớt hải chạy vào làng kêu cứu ông Mikhailôvic vì ông đã ngập đến đầu gối rồi. Dân làng chạy ra và bảo: hốt hoảng gì vì ông ta mới ngập đến mắt cá chân. Nhưng khổ là ông ta đã ngả đầu chúc xuống vũng lầy, chứ không phải đi vào vũng lầy đâu”.
Khi Kissinger trao cho phía VNDCCH một số tài liệu về việc Mỹ sắp phóng tàu Apollo lên mặt trăng, ông nói, trong này không có 7 điểm, cũng không có 9 điểm (ý nói đến các yêu cầu của VN) và ông nói tiếp, rằng “con đường lên mặt trăng còn ít trở ngại hơn con đường chúng ta đi”.
Bàn về thể thức qua lại giới tuyến tạm thời, ông ta châm biếm:
- Con trâu có đi lại được không?
- Trâu sắt thì không, còn trâu thường thì không có vấn đề gì. Ông Thọ trả lời.
- Chúng tôi quan sát thấy nhiều con voi qua khu phi quân sự. Kisinger đáp.
Khi ký kết Hiệp định Pari, Kisinger tặng cây bút cho Lê Đức Thọ và nói:
- Tôi xin tặng ông cây bút này để nhớ mãi ngày lịch sử này.
Ông có một sự hiểu biết hết sức sâu sắc về con người Việt Nam . Kissinger bàn luận với Tiến sỹ Eric Wulf, trưởng khoa tâm thần học của Trường Đại học Freiburg ở Tây Đức – người sáng lập ra một chương trình tâm thần học của Đại học Huế, rằng đầu óc người Việt Nam tạo ra thực tiễn trong những hoàn cảnh hoang tưởng. Đối với người Việt Nam thì những hoàn cảnh trong cuộc sống không tương đương với thực tế cảm nhận được mà với một mớ những điều hoang tưởng. Vấn đề chính là tìm ra những điều hoang tưởng nào mà họ đang đề cập đến trong những hoàn cảnh nhất định – ông ta nói.
Vì vậy, phải chăng, một trong những thành công của Hoa Kỳ tại Cuộc đàm phán Pari về Việt Nam là cách sử dụng ngôn ngữ của Tiến sỹ Kissinger?