(Chênh giữa giữa số liệu GS Energy công bố và số liệu UBND tỉnh Long An cung cấp. Đơn vị: %)
Đơn cử, theo dữ liệu trên website của GS Energy Corporation (đã quy đổi theo tỷ giá 1 won = 0,00087 USD), doanh thu công ty trong năm 2019 đạt 2.094 triệu USD, tăng trưởng 6% so với năm 2018. Dù vậy, thu nhập ròng 253 triệu USD, giảm đến 52,1%.
Có thể thấy, chỉ tiêu doanh thu/thu nhập ròng theo công bố của GS Energy thấp hơn lần lượt 13% và 81,11% so với các con số thông báo từ tỉnh Long An.
Trên bảng cân đối kế toán, các chỉ tiêu tổng tài sản công ty, vốn chủ sở hữu, nợ giảm lần lượt 13,01%; 13% và 13,03%.
Ở các năm 2017 và 2018, cả 5 chỉ tiêu doanh thu, lãi ròng, tài sản, vốn chủ sở hữu, nợ phải trả do GS Energy công bố cũng thấp hơn so với dữ liệu cung cấp của UBND tỉnh Long An.
Duy chỉ có năm 2016, các số liệu GS Energy cung cấp cao hơn số liệu từ UBND tỉnh Long An.
Đáng chú ý, xét trong 9 tháng đầu năm 2020, GS Energy đã lỗ đến 277,5 triệu USD.
GS Energy chưa cập nhật số liệu bảng cân đối kế toán 9 tháng đầu năm 2020. Xét đến ngày 31/12/2019, tài sản GS Energy đạt 7.978 triệu USD đồng, tăng 1,7% so với số đầu kỳ. Nợ phải trả 2.910 triệu USD. Vốn chủ sở hữu 5.068 triệu USD.
|
2016 |
2017 |
2018 |
2019 |
ROE |
12,28 |
14,02 |
10,79 |
4,99 |
ROA |
7,65 |
8,77 |
6,74 |
3,17 |
(Hiệu quả kinh doanh của GS Energy giai đoạn 2016-2019. Đơn vị: %).
Hiệu quả kinh doanh của GS Energy cũng suy giảm trong giai đoạn 2016 – 2019. Có thể thấy, chỉ số ROE và ROA công ty đạt “đỉnh” trong năm 2017 ở mức lần lượt 14,02% và 8,77% và giảm dần ở các năm sau đó.
Năm 2019, ROE và ROA đạt làn lượt 4,99% và 3,17%. Mức thấp nhất giai đoạn 2016 – 2019.
Thực hiện lựa chọn nhà đầu tư khi chưa có phê duyệt quy hoạch ngành của cấp có thẩm quyền
Ngày 28/12/2020, UBND tỉnh Long An ban hành văn bản số 7902/UBND-KTTC về việc chọn nhà đầu tư dự án nhiệt điện LNG Long An 1 và Long An II. Tại văn bản này các căn cứ pháp lý nêu lên để UBND tỉnh Long An chấp thuận chủ trương lựa chọn nhà đầu tư, không có văn bản nào phù hợp với quy định pháp luật liên quan đến quy định của ngành điện về quy hoạch tổng sơ đồ điện.
Trong văn bản được nêu làm căn cứ là Quyết định số 428/QĐ - TTg ngày 18/03/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia giai đoạn 2011-2020 có xét đến 2030 (Tổng sơ đồ điện VII điều chỉnh). Tại văn bản này quy hoạch được cấp có công suất nhỏ hơn và công nghệ khác với dự án “Nhà máy nhiệt điện (LNG) Long An I và Long An II”.
Căn cứ tiếp theo là Công văn số 1080/TB - VPCP ngày 13/08/2020 của Văn phòng Chính phủ, thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh các dự án Nhà máy nhiệt điện (LNG) Long An I và Long An II từ sử dụng điện than chuyển sang nhiên liệu khí hóa lỏng. Theo chúng tôi tìm hiểu, đây là các chủ trương để từ đó xây dựng quy hoạch ngành điện chứ không phải là quyết định mang tính chất quy phạm pháp luật để làm căn cứ lựa chọn nhà đầu tư.
Hiện nay dự thảo quy hoạch điện VIII đang được cấp có thẩm quyền xem xét để quyết định phê duyệt, mặc dù trong dự thảo có nêu quy hoạch của Nhà máy nhiệt điện (LNG) Long An I và Long An II nhưng việc tổ chức lựa chọn nhà đầu tư khi chưa có văn bản chính thức phê duyệt quy hoạch là chưa đảm bảo các quy định của pháp luật liên quan đến ngành điện.
Tiêu chí lựa chọn nhà đầu tư chưa đảm bảo theo quy định của pháp luật có thể dẫn đến rủi ro
Theo tìm hiểu của phóng viên, thông báo số 3500/TB-SCT ngày 31/12/2020 về việc xét chọn nhà đầu tư dự án “Nhà máy nhiệt điện (LNG) Long An I và Long An II” đã ban hành các tiêu chí lựa chọn nhà đầu tư. Trong thông báo này, đã không xây dựng tiêu chí ký quỹ để thực hiện dự án đầu tư đã được quy định tại Luật đầu tư 2014. Tại Điều 27 Nghị định số 118 /2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật đầu tư đã quy định thì ký quỹ thực hiện dự án đối với quy mô dự án này là 1% trên tổng mức đầu tư tương đương khoảng 300 triệu đô la Mỹ.
Đây là dự án lớn, có sử dụng hàng trăm hecta đất để xây dựng công trình, bên cạnh đó là đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Việc không xây dựng tiêu chí ký quỹ thực hiện dự án có thể phát sinh những rủi ro tiềm ấn ảnh hưởng đến phát triển kinh tế xã hội.
Cần xem xét lại toàn diện về pháp lý và quy trình thực hiện dự án đầu tư
Dự án Nhà máy điện LNG Long An I và II là 2 dự án sử dụng nhiên liệu khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) có tổng công suất dự kiến 3.000MW, bao gồm 2 nhà máy Tuabin khí chu trình hỗn hợp, công suất mỗi nhà máy 1.500MW. Tổng mức đầu tư 2 nhà máy điện và hệ thống kho chứa LNG ước tính khoảng 3,13 tỷ USD.
Với tổng mức đầu tư lớn, nhưng với những băn khoăn và dư luận về sự “gấp gáp” trong lựa chọn đối tác và đối tác được lựa chọn qua đấu thầu lại là Nhà thầu đã được tỉnh Long An làm văn bản “đề nghị” Chính phủ cho phép lựa chọn từ trước (trích văn bản số 10/ TTr-UBND ngày 10/02/2020 của UBND tỉnh Long An gửi Thủ tướng Chính phủ). Bên cạnh sự gấp gáp là các quy định và trình tự thủ tục chuẩn bị đầu tư chưa chặt chẽ, năng lực nhà thầu có sự sai khác trong các báo cáo có thể dẫn đến rủi ro cho dự án. Dư luận đang mong muốn các cấp có thẩm quyền xem xét toàn diện dự án để đảm bảo minh bạch và tuân thủ chặt chẽ các quy định pháp luật nhằm đưa đến hiệu quả cao nhất của dự án góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của Đất nước.