Phóng viên: Như đồng chí đã từng nhiều lần khẳng định, tất cả cơ chế chính sách hiện nay của Ngân hàng Nhà nước đặt ra đều xuất phát từ mục tiêu cuối cùng là làm thế nào hỗ trợ tăng trưởng kinh tế một cách bền vững và tiếp tục quán xuyến thực hiện tốt mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Vậy cụ thể qua thực tiễn điều hành chính sách tiền tệ trong năm 2022, điều đó đã được thể hiện như thế nào, thưa Phó Thống đốc?
Phó Thống đốc Đào Minh Tú: Sự chủ động đưa ra các quyết sách phù hợp trong bối cảnh hiện nay, đã thể hiện qua kết quả điều hành của Ngân hàng Nhà nước trong năm vừa qua. Cụ thể như tôi nói ở trên, chính sách tiền tệ đã có những đóng góp quan trọng, góp phần củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô. Đó là góp phần kiểm soát lạm phát ở mức thấp, tăng trưởng kinh tế phục hồi ở mức cao. Đến cuối năm 2022, tín dụng ước tăng khoảng 14,5%; thị trường tiền tệ, ngoại hối cơ bản ổn định. VND mất giá ở mức thấp (3,5%), mặt bằng lãi suất tăng khoảng gần 1%/năm, là mức biến động thấp hơn nhiều so với các nước trên thế giới và khu vực. Việc cung ứng ngoại tệ cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước, nhà đầu tư nước ngoài của Việt Nam được bảo đảm, chưa có trường hợp nào thiếu ngoại tệ, không có ngân hàng thương mại nào gặp khó khăn hay mất cân đối ngoại tệ thời gian qua.
Điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt, kịp thời; bám sát diễn biến từng thời điểm; hướng tới thực hiện hài hòa các mục tiêu kinh tế vĩ mô nhưng vẫn có sự ưu tiên và chọn lọc.
Việc điều hành chính sách tiền tệ luôn hướng tới cân bằng các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Nhưng tùy theo diễn biến tình hình để xác định trọng tâm, trọng điểm ưu tiên trong từng thời điểm.
Thực tế, từ tháng 10 khi sự cố Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) xảy ra tác động mạnh tới thanh khoản hệ thống và thị trường, Ngân hàng Nhà nước đã tập trung ưu tiên hỗ trợ hệ thống các tổ chức tín dụng giải quyết vấn đề quản trị thanh khoản, giải tỏa tâm lý thị trường và các vấn đề còn tồn tại để bảo đảm an toàn hệ thống trước những rủi ro hiện hữu.
Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước đã cấp bách triển khai nhiều giải pháp để tập trung ưu tiên cải thiện thanh khoản. Theo đó, chưa điều chỉnh tăng trưởng tín dụng trong tháng 10. Sang tháng 11, khi thanh khoản hệ thống được cải thiện, tác động từ bên ngoài dịu bớt, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tăng trưởng tín dụng thêm 1,5-2%.
Ngoài ra, để ổn định thị trường ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước cũng đã thực hiện đồng thời các giải pháp như: Tăng biên độ giao dịch của tỷ giá từ +3% lên +5% để linh hoạt cho phép VND mất giá đến 9%, sẵn sàng bán ngoại tệ can thiệp, hai lần điều chỉnh mỗi lần tăng 1% các mức lãi suất điều hành (trong tháng 9 và 10), nhờ vậy thị trường đã dần ổn định trở lại.
Đặc biệt, tháng 11 vừa qua, Bộ Tài chính Hoa Kỳ đã đưa Việt Nam ra khỏi Danh sách giám sát nâng cao về thao túng tiền tệ, đồng thời, đánh giá cao công tác điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước.
Như vậy, có thể khẳng định trước bối cảnh thế giới biến động mạnh, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt, kịp thời; bám sát diễn biến từng thời điểm; hướng tới thực hiện hài hòa các mục tiêu kinh tế vĩ mô nhưng vẫn có sự ưu tiên và chọn lọc. Việc kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát là vô cùng quan trọng nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp trong nước và thu hút nhà đầu tư nước ngoài.