Giữa những tranh cãi nội bộ và công việc cải cách phức tạp, kế hoạch đã bị trì hoãn hơn hai năm. Đã có hàng chục phiên bản dự thảo trước khi được Thủ tướng Phạm Minh Chính thông qua, và hiện cần được quốc hội thông qua, có thể trong tháng này, trước khi thông qua lần cuối.
Một nhà ngoại giao từ nhóm các nhà tài trợ G7, người từ chối xác định danh tính vì không được phép nói chuyện với truyền thông, cho biết hôm 16/5 rằng sự phê chuẩn này là một bước quan trọng và cần thiết để mở khóa tài trợ cho các dự án năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng gió ngoài khơi. Tuy nhiên, kế hoạch này không hoàn toàn phù hợp với các mục tiêu của G7, nhà ngoại giao này nói thêm, vì Việt Nam vẫn sẽ phụ thuộc nhiều vào than đá trong thập kỷ này.
Để hoàn thành quá trình chuyển đổi theo kế hoạch sang trung hòa carbon với việc loại bỏ hoàn toàn than vào năm 2050, chính phủ Việt Nam ước tính cần tới 658 tỷ USD, trong đó 1/5 sẽ phải được giải ngân trong thập kỷ này.
Kế hoạch này sẽ tăng gấp đôi công suất phát điện của Việt Nam lên hơn 150 GW vào năm 2030 từ 69 GW vào cuối năm 2020.
Các nhà máy điện sử dụng khí đốt trong nước và khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) nhập khẩu sẽ trở thành nguồn điện quan trọng vào năm 2030, với tổng công suất lắp đặt là 37,33 GW, tương đương 24,8% tổng công suất, với LNG chiếm tỷ trọng lớn nhất, theo đến một tài liệu của chính phủ mà Reuters đã xem và chưa được công bố.
Đây là mức tăng gấp bốn lần so với năm 2020, khi Việt Nam chỉ sản xuất khoảng 9 GW khí đốt tự nhiên từ các mỏ ở Biển Đông. Việt Nam không nhập khẩu LNG nào vào lúc này.
Chính phủ cho biết gió, mặt trời và các nguồn tái tạo khác, không bao gồm thủy điện, được thiết lập để đáp ứng ít nhất gần 31% nhu cầu năng lượng của đất nước vào năm 2030, từ khoảng 25% vào năm 2020. Đóng góp của các nguồn năng lượng này có thể tăng lên 47% nếu các cam kết của G7 được thực hiện thực hiện đầy đủ, tài liệu cho biết.
Gió sẽ chiếm 18,5% tổng các loại hình năng lượng, phần lớn là trên đất liền, trong khi phần đóng góp từ năng lượng mặt trời sẽ giảm gần gấp ba lần xuống còn 8,5%.
Công suất điện gió ngoài khơi, vốn được các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt quan tâm, dự kiến sẽ đạt 6 GW vào cuối thập kỷ này từ con số 0 như hiện nay và ít nhất 70 GW vào năm 2050. Kế hoạch đã điều chỉnh giảm nhẹ mục tiêu ban đầu là 7 GW vào năm 2030 , như Reuters đưa tin trước đó vào tháng Năm.
Nhưng không rõ các dự án mới có thể được triển khai nhanh như thế nào, vì quốc gia này vẫn có thể cần thông qua luật mới về sử dụng không gian biển.
Trong cơ cấu năng lượng đến năm 2030, thủy điện sẽ chiếm 19,5%, giảm từ hơn 30% vào năm 2020.
Than sẽ vẫn là một nguồn năng lượng quan trọng, chiếm 20% tổng các nguồn năng lượng vào năm 2030, nhưng giảm từ mức gần 31% vào năm 2020 Tuy nhiên, do tổng sản lượng dự kiến sẽ tăng vọt, năng lượng tạo ra từ than sẽ tăng lên hơn 30 GW vào cuối thập kỷ này, từ 21 GW vào năm 2020.
Theo BBC