Dự án VSMT TPHCM giai đoạn 2 (còn được gọi dự án hỗ trợ kỹ thuật chuẩn bị đầu tư dự án này). Dự án bao gồm 8 gói thầu trong đó 5 gói thầu đã được thực hiện xong. Hiện chỉ còn 3 gói thầu chính đang thực hiện gồm: Gói PP04 – tư vấn chuẩn bị thiết kế tham khảo và lập hồ sơ mời thầu cho nhà máy xử lý nước thải; gói thầu PP03 – tư vấn thiết kế chi tiết và lập hồ sơ mời thầu thi công tuyến cống bao; gói thầu PP01 – tư vấn thiết kế chi tiết và lập hồ sơ mời thầu thi côn hệ thống cống cấp 2, cấp 3 cho quận 2.
Dự án này được cơ cấu vốn vay 450 triệu USD, trong đó 200 triệu USD vay dưới hình thức trả lãi thường 0,75%/năm và 250 triệu USD vay lãi suất 4,8%/năm. Như vậy, tính sơ bộ, mỗi năm Nhà nước phải trả lãi 300 tỷ đồng/năm (khoảng 13,5 triệu USD/năm). Việc dự án bị chậm tiến độ nhiều tháng nay đã giảm hiệu quả dự án, lãng phí nguồn vốn vay trong lúc nợ công của Việt Nam đang ở mức cao.
Trong bối cảnh nợ công Việt Nam tăng cao, Nhà nước vẫn phải chấp nhận đi vay vốn để có tiền thực hiện các dự án cải tạo hạ tầng. Với mục đích cải thiện, nâng cao chất lượng sống cho người dân Thành phố, năm 2012, lãnh đạo TP. HCM đã phê duyệt dự án đầu tư vệ sinh môi trường TP. HCM giai đoạn 2 (VSMT TPHCM giai đoạn 2), bao gồm xây dựng tuyến cống bao từ giếng Bờ Đông (sông sài Gòn) đến Nhà máy xử lý nước thải Nhiêu Lộc - Thị Nghè tại quận 2 dài khoảng 8km (hợp phần 1); xây dựng nhà máy xử lý nước thải kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè công suất 480.000m3/ngày (hợp phần 2); xây dựng mạng lưới cống thoát nước cấp hai, ba và hệ thống đấu nối hộ gia đình tại quận 2 (hợp phần 3).
Dự án do Ban Quản lý đầu tư dự án Vệ sinh môi trường TP. HCM làm chủ đầu tư, được thực hiện dưới hình thức hợp đồng DBO (Thiết kế - Xây dựng - Vận hành) với tổng vốn đầu tư 524 triệu đô la Mỹ (trong đó vốn vay ODA từ Ngân hàng Thế giới là 450 triệu đô la Mỹ, còn lại là vốn đối ứng của TP. HCM). Trong tổng số 450 triệu USD vốn vay, 200 triệu USD vay dưới hình thức trả lãi thường 0,75%/năm và 250 triệu USD vay lãi suất 4,8%/năm. Như vậy, tính sơ bộ, mỗi năm Nhà nước phải trả lãi 300 tỷ đồng/năm (khoảng 13,5 triệu USD/năm).
Chính vì tính cấp thiết của dự án, Lãnh đạo thành phố đã xin Chính phủ nhiều cơ chế đặc thù riêng cho dự án như cho phép Thành phố được phê duyệt kế hoạch đấu thầu cho hạng mục Nhà máy xử lý nước thải Nhiêu Lộc - Thị Nghè như là một gói thầu duy nhất để Thành phố có cơ sở pháp lý triển khai công tác sơ tuyển cho hạng mục này…
Điều quan trọng, việc triển khai dự án này không phải chậm do việc giải phóng mặt bằng, hơn nữa nguồn vốn để thực hiện dự án cũng đã có sẵn do hiệp định vay vốn ODA với ngân hàng thế giới đã ký kết từ ngày 10/7/2015.
Việc ảnh hưởng tiến độ dự án là do những bất thường trong quá trình lựa chọn nhà thầu và trao hợp đồng thầu cho các nhà thầu thực hiện các gói thầu chuẩn bị dự án. Điển hỉnh, như quá trình thực hiện gói thầu PP04 – tư vấn thiết kế tham khảo và lập hồ sơ mời thầu cho nhà máy xử lý nước thải. Gói thầu này trước đây đã được ký với nhà thầu CEEM (Consultants For Environmental) trị giá 1.099 USD.
Tuy nhiên, đến tháng 6/2015, thời gian thực hiện Hợp đồng hết tuy nhiên khối lượng công việc vẫn chưa hoàn thành. Tư vấn CEEM đã có đề xuất gia hạn tiến độ để bù đắp lại thời gian chậm do các lỗi khách quan từ 2 phía. Tuy nhiên, ban quản lý dự án đã không đồng ý với đề xuất trên và báo cáo UBND TP cho phép không gia hạn với nhà thầu này vì cho rằng nhà thầu này không đủ năng lực.
Sau khi được UBND TPHCM chấp thuận, Ban quản lý dự án đã tiến hành đàm phán và tất toán với nhà thầu CEEM với giá trị thanh toán cho nhà thầu này là 65% giá trị hợp đồng đã ký kết. Giá trị thanh thoán này do ban quản lý tự quyết không xin phép các cấp có thẩm quyền.
Phần việc còn lại tương đương 35% giá trị hợp đồng ban quản lý dự án đã tiến hành đấu thầu chọn nhà thầu theo hình thức CQS và sử dụng nguồn vốn vay ODA của dự án VSMT TP Giai đoạn 2 để thực hiện tiếp. Việc lựa chọn nhà thầu này được triển khai và đến tháng 12/2015 hợp đồng đã được ký kết cho nhà thầu Nippon Koei với giá trị 720 nghìn USD với thời gian thực hiện hợp đồng 11 tháng. Việc lựa chọn nhà thầu mới cũng có nhiều điểm ưu ái, chưa minh bạch, công tâm
Như vậy, việc chấm dứt nhà thầu CEEM với lý do năng lực kém đã không được ban quản lý dự án thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng và trang thông tin đấu thầu theo quy định và ngoài ra chủ đầu tư không phạt nhà thầu CEEM vì chậm tiến độ, chất lượng kém mà còn thưởng cho nhà thầu CEEM thông qua việc tiến hành thanh toán hào phóng hơn 65% giá trị hợp đồng.
Giá trị hợp đồng này lại chưa được các cơ quan chức năng có thẩm quyền cho phép và đặc biệt giá trị hợp đồng ký với nhà thầu mới cao hơn với giá trị còn lại khoảng 335 nghìn USD tương đương 7,3 tỷ đồng.
Trong khi đó, theo quy định của khoản 11, điều 117, nghị định 63/2014 NĐ-CP thì “giá trị phần khối lượng công việc chưa thực hiện giao dịch cho nhà thầu mới được tính bằng giá trị ghi trong hợp đông trừ đi giá trị của phần khối lượng công việc đã thực hiện trước đó”.
Như vậy, giá trị hợp đồng ký với nhà thầu Nippon Kioe không được vượt quá 380 nghìn USD.
Câu hỏi đặt ra, vì sao chưa được sự đồng ý của các cơ quan chức năng nhưng Ban quản lý dự án đã vội vàng ký hợp đồng với nhà thầu Nipon Kioe. Phần tiền chênh lệnh của 35% giá trị gói thầu mà Ban quản lý đã ký được lấy từ nguồn tiền nào. Phải chăng lấy từ chính nguồn vốn vay ODA của gói thầu. Việc thất thoát, lãng phí này ai sẽ là người chịu trách nhiệm.
Thêm nữa, theo đại diện nhà thầu CEEM, nhà thầu này rất muốn tiếp tục thực hiện phần việc còn lại và dự kiến chỉ khoảng 3 tháng là hoàn thành. Xong, nếu ban quản lý thay nhà thầu mới thì tính toán sơ bộ cũng phải 17 tháng mới hoàn thành vì riêng thời gian chọn lại nhà thầu mất 6 tháng.
Đây là 1 trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc dự án chậm tiến độ gây thiệt hại cho nhà nước khoảng hơn 300 tỷ đồng (là khoản lãi vay ODA Việt Nam phải trả).
Ngoài ra, thông tin từ các nhà thầu tham dự cho biết, ngay từ khi phát hành hồ sơ mời quan tâm, Chủ đầu tư đã tìm cách hạn chế nhà thầu tham gia bằng cách không phát hành hồ sơ ngay mà sau khoảng 10 ngày mới phát hồ sơ cho các nhà thầu “không thân thiết với chủ đầu tư”. Nguyên nhân là thời gian còn lại rất ngắn, các nhà thầu này sẽ không kịp chuẩn bị hồ sơ.
Trong quá trình đánh giá hồ sơ này, Chủ đầu tư đã lập tổ chuyên giá đánh giá với các thành viên là nhân viên đang làm việc tại Ban Quản lý dự án Vệ sinh môi trường (trong đó có cả nhân viên thử việc chưa đủ tiêu chuẩn theo quy định tại điều 116, Nghị Định 63/2014/NĐ-CP).
Một nhà thầu cho biết, việc đánh giá hồ sơ mời thầu theo kiểu này khó đảm bảo được tính khách quan. Rất có thể, việc lựa chọn nhà thầu được thực hiện theo ý chủ quan của chủ đầu tư.
Ngoài ra một điều lạ nữa là gói thầu TV01 có đến 02 bộ tiêu chuẩn đánh giá. Một câu hỏi lớn được đặt ra đó là: tại sao lại có sự khác biệt giữa 02 bộ tiêu chuẩn này? Phải chăng có sự ưu ái hay dàn xếp cho nhà thầu nào đó mà chủ đầu tư mong muốn?