TIN TỨC

fanpage

Thống kê truy cập

  • Online: 9
  • Hôm nay: 151
  • Tháng: 1199
  • Tổng truy cập: 5245203
Chi tiết bài viết

Tọa đàm khoa học nghiệp vụ "Kinh nghiệm trong công tác kiểm sát giải quyết án dân sự về tranh chấp đất đai, nhà ở"

Thưa quý vị, các đồng chí và các bạn!

 

Xin mời quý vị, các đồng chí và các bạn theo dõi buổi tường thuật trực tuyến cuộc Tọa đàm khoa học nghiệp vụ về "Kinh nghiệm trong công tác kiểm sát giải quyết án dân sự về tranh chấp đất đai, nhà ở" được bắt đầu từ 8h00’ ngày 20/7/2012, tại thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Cuộc Tọa đàm này do Tạp chí Kiểm sát phối hợp với VKSND tỉnh Phú Thọ đồng chủ trì, với sự tham dự của đại diện Lãnh đạo một số đơn vị trực thuộc VKSNDTC (Vụ 5 và Vụ 12); các đại biểu là đại diện Lãnh đạo Viện, Lãnh đạo, Kiểm sát viên một số Phòng nghiệp vụ của VKSND các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc cùng tập thể Lãnh đạo Viện, các đồng chí ủy viên Ủy ban Kiểm sát, Lãnh đạo Phòng, Kiếm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp của Phòng 5 và các VKSND cấp huyện thuộc Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ; đại diện Lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ.

 

 

Toàn cảnh tọa đàm

 Đồng chí Trương Bá Hùng, Viện trưởng VKSND tỉnh Phú Thọ và Nhà báo Nguyễn Như Hùng, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Kiểm sát đồng chủ trì cuộc tọa đàm.

 Để chuẩn bị nội dung cho cuộc tọa đàm này, trước đó, Ban tổ chức tọa đàm (VKSND tỉnh Phú Thọ và Tạp chí Kiểm sát) nhận được 9 báo cáo, tham luận của 8 VKSND tỉnh, thành phố tham dự tọa đàm gửi về Tạp chí Kiểm sát. Nội dung các báo cáo, tham luận của các đơn vị tập trung nêu 04 nhóm vấn đề như sau:

 Thứ nhất, nhóm vấn đề về nhận thức và thực tiễn áp dụng các chế định cơ bản của Bộ luật dân sự và các quy định có liên quan như chế định sở hữu, tài sản và quyền tài sản, chế định giao dịch dân sự, hợp đồng, vấn đề thời hiệu...

 Trong nhóm vấn đề này, các báo cáo, tham luận đã đề cập khá nhiều nội dung cụ thể như:

 - Khái niệm tài sản theo quy định tại Điều 163 của Bộ luật Dân sự năm 2005 có còn phù hợp trước yêu cầu của tình hình thực tiễn hiện nay; liệu quyền sử dụng đất hay cụ thể là hình thức pháp lý của nó là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi đưa vào các giao dịch dân sự nếu có tranh chấp thì sẽ được xác định như thế nào, là tài sản, là giấy tờ có giá hay là quyền tài sản...

 - Vấn đề chủ sở hữu và chế định đại diện theo các quy định hiện hành; cụ thể là trong trường hợp có đồng sở hữu, phát sinh vấn đề đại diện chủ sở hữu (theo ủy quyền, theo pháp luật) đối với việc thừa kế quyền sử dụng đất đai, nơi thờ tự của dòng họ, cơ sở tôn giáo. Trong trường hợp này thì xác định ai sẽ là đại diện theo pháp luật...

 - Vấn đề xác định giao dịch dân sự có hiệu lực, vô hiệu; điều kiện (điều kiện về nội dung, điều kiện về hình thức) và thời điểm có hiệu lực của một hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, vấn đề ủy quyền thực hiện các giao dịc rồi đi thế chấp ngân hàng để vay vốn, góp vốn kinh doanh làm mất khả năng thanh toán... một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng mà du luận, báo chí trong thời gian qua thường gọi là "tín dụng đen"; như vậy, bản chất của vấn đề này là gì, kẽ hở pháp luật nào đã bị lợi dụng...

 Thứ hai, phản ánh về các dạng điển hình về tranh chấp dân sự liên quan đến đất đai, nhà ở, tài sản trên đất; các dấu hiệu đặc trưng để nhận biết, phân loại các tranh chấp này, từ đó trao đổi kinh nghiệm trong thực tiễn giải quyết.

 Hầu hết các báo cáo, tham luận đã nêu lên một số dạng tranh chấp đất đai, nhà ở điển hình như: Tranh chấp về thừa kế, chia tài sản chung là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất; tranh chấp giữa các đồng sở hữu quyền sử dụng đất trong một gia đình, dòng họ, đất và tài sản ở nơi thờ tự, đất tôn giáo; tranh chấp giữa những người sử dụng đất về ranh giới đất đai; tranh chấp trong góp vốn kinh doanh bằng quyền sử dụng đất; tranh chấp nảy sinh do việc lợi dụng những sai sót về thủ tục, sai sót trong các giấy tờ hành chính liên quan đến việc xác định quyền sử dụng đất; vấn đề định giá tài sản là quyền sử dụng đất, nhà và tài sản trên đất (có sự khác nhau giữa các cơ quan định giá hoặc giữa các cấp xét xử); các tranh chấp hợp đồng dân sự có liên quan đến quyền sử dụng đất (như mua bán, chuyển nhượng, tặng cho, mượn, góp vốn, chuộc lại tài sản…).

 Thứ ba, là những vướng mắc, khó khăn trong việc áp dụng các quy định của luật tố tụng dân sự về thụ lý vụ án, về trình tự thủ tục giải quyết vụ việc liên quan đến đất đai, nhà ở.

 Thứ tư, nhiều báo cáo, tham luận đã giành phần lớn nội dung để phản ánh kết quả, kinh nghiệm trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự liên quan đến tranh chấp về đất đai, nhà ở; nhất là những kết quả, kinh nghiệm kể từ khi ngành ta triển khai thực hiện các quy định mới của Bộ luật TTDS (sửa đổi, bổ sung) về nhiệm vụ, thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự; đồng thời nêu lên những khó khăn, vướng mắc, bất cập nảy sinh trong thực tiễn tổ chức thực hiện các quy định.  trao đổi kinh nghiệm nghiệp vụ về giải quyết các vụ án này; nhiều đơn vị nêu kiến nghị, đề xuất, giải pháp

Ngoài ra, trong hầu hết các tham luận đều nêu lên những vụ việc cụ thể đang có những vướng mắc, khó khăn trong quá trình giải quyết để ví dụ, dẫn chứng cho tính phức tạp trong việc giải quyết các loại án này; đồng thời, cũng nêu vấn đề qua vụ án cụ thể để xin ý kiến trao đổi...

 

 

Đồng chí Trương Bá Hùng, Viện trưởng VKSND tỉnh phát biểu khai mạc tọa đàm

Trong bài phát biểu khai mạc, đồng chí Trương Bá Hùng, Viện trưởng VKSND tỉnh Phú Thọ nêu rõ: Quán triệt các Nghị quyết, quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI và các quy định mới của pháp luật có liên quan đến tổ chức và hoạt động của ngành Kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp; trong thời gian qua, Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh khu vực phía Bắc nói chung và Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố: Phú Thọ, Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương và Hưng Yên nói riêng, đã kịp thời quán triệt nghiêm túc các quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, các quy định mới của pháp luật về tố tụng dân sự, bám sát sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về các hoạt động công tác kiểm sát trong lĩnh vực dân sự; trên cơ sở đó, đã triển khai thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp đổi mới, nâng cao chất lượng các mặt công tác trong đó có công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự nói chung và kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự về đất đai, nhà ở nói riêng, thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân trong tiến trình cảnh cải cách tư pháp.

 Với tinh thần đó, trên cơ sở trao đổi, thống nhất và được sự ủng hộ của Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương và Hưng Yên; Tạp chí Kiểm sát và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ đã phối hợp tổ chức cuộc Tọa đàm hôm nay để trao đổi, thảo luận khó khăn, vướng mắc; những kinh nghiệm, góp phần làm rõ những vấn đề cơ sở pháp lý, về cơ sở lý luận, khoa học nghiệp vụ và thực tiễn kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự liên quan đến tranh chấp về đất đai, nhà ở; từ đó giúp cho Tạp chí Kiểm sát, VKSNDTC tỉnh Phú Thọ và các VKSND tham gia Tọa đàm tổng hợp thông tin, đề xuất, kiến nghị đến cấp có thẩm quyền các biện pháp nâng cao chất lượng, kỹ năng kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự liên quan đến tranh chấp về đất đai, nhà ở.

 

 

 Đồng chí Nguyễn Như Hùng, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Kiểm sát trình bày báo cáo đề dẫn Tọa đàm

Tiếp đó, Th.s Nguyễn Như Hùng, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Kiểm sát đã trình bày báo cáo đề dẫn tọa đàm. Theo Báo cáo đề dẫn: Tình hình khiếu kiện, tranh chấp liên quan đến đất đai, nhà ở, tài sản trên đất hiện đang là vấn đề mang tính thời sự, diễn ra ở hầu hết các tỉnh thành trong cả nước, có chiều hướng gia tăng về số lượng, tính chất ngày càng phức tạp,  ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế, đảm bảo trật tự xã hội tại các địa phương. Trong hoạt động tố tụng dân sự thì các vụ việc dân sự liên quan đến tranh chấp về đất đai, nhà ở thường rất phức tạp và chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng số các vụ án dân sự mà Tòa án thụ lý giải quyết. Theo báo cáo tại Hội nghị trực tuyến về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo do Chính phủ tổ chức trong tháng 6 vừa qua, thì trong 4 năm (từ 2008-2011) khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai trong cả nước chiếm trên 70%. Về số lượng vụ việc liên quan đến tranh chấp đất đai do Tòa án thụ lý có xu hướng gia tăng; ví dụ: theo báo cáo tham luận của VKSND tỉnh Phú Thọ, thì năm 2010, số vụ tranh chấp về đất đai chiếm 21,4%, năm 2011 là 30,8%; việc giải quyết các vụ việc loại này thường kéo dài, qua nhiều cấp xét xử. Trong đó, nhiều vụ có quan điểm xử lý khác nhau, thậm chí có vụ quan điểm xử lý trái ngược nhau…

 Trước tình hình đó, cùng với việc thực hiện yêu cầu, nhiệm vụ của công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự theo quy định mới của pháp luật tố tụng dân sự đòi hỏi Viện kiểm sát nhân dân cần đóng một vai trò tích cực, chủ động hơn trong việc giải quyết các vụ việc dân sự, đặc biệt là các vụ việc liên quan đến tranh chấp đất đai, nhà ở nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, của tập thể và của công dân...

 Căn cứ vào mục đích, yêu cầu mà Ban tổ chức đã xác định trong kế hoạch tổ chức tọa đàm và trên cơ sở kết quả tổng hợp nội dung và các vấn đề chủ yếu được nêu trong các báo cáo, tham luận, Ban tổ chức Tọa đàm đã đề nghị các đại biểu, đại diện các đơn vị tập trung tham luận về các vấn đề chính như sau:

 Một là, trao đổi những vấn đề lý luận, góp phần thống nhất nhận thức về một số chế định của Bộ luật dân sự có liên quan đến việc giải quyết loại án này như: chế định về tài sản, chế định về quyền sở hữu, chế định đại diện, chế định giao dịch dân sự, chế định hợp đồng..

 Hai là, trao đổi về các dạng tranh chấp đất đai, nhà ở, dấu hiệu nhận biết và kinh nghiệm giải quyết trong thực tiễn.

 Ba là, về những vướng mắc trong việc thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự liên quan đến quá trình giải quyết các vụ án dân sự về tranh chấp đất đai, nhà ở và đề xuất, kiến nghị khắc phục.

 Bốn là, phản ánh khó khăn, vướng mắc và trao đổi kinh nghiệm giải quyết trong việc thực hiện các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát, của Kiểm sát viên trong công tác kiểm sát giải quyết án dân sự về tranh chấp đất đai, nhà ở, quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Tòa án; kiến nghị, đề xuất về sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn áp dụng pháp luật; về công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và việc đảm bảo các điều kiện để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết án dân sự nói chung.

 

 Các đại biểu tham dự tọa đàm

 (Xem toàn văn các tham luận)

Đồng chí Nguyễn Đăng Khoa, Phó Viện trưởng VKSND tỉnh Phú Thọ phát biểu tham luận

Mở đầu phần tham luận, đồng chí Nguyễn Đăng Khoa, Phó Viện trưởng VKSND tỉnh Phú Thọ cho biết: Trong bối cảnh tình hình các tranh chấp dân sự về đất đai có xu hướng gia tăng trong giai đoạn hiện nay, nhiều vụ án có tính chất phức tạp, qua nhiều lần, nhiều cấp xét xử vẫn chưa đi đến kết quả giải quyết cuối cùng, qua đó đã bộc lộ nhiều vấn đề còn bất cập, vướng mắc trong cả lý luận và trong thực tiễn cần thiết phải nghiên cứu, đánh giá thêm. Chính vì vậy, việc lựa chọn chủ đề thảo luận “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn việc giải quyết các vụ án dân sự liên quan đến tranh chấp đất đai, nhà ở” là hoàn toàn đúng đắn và sát với thực tiễn tại địa phương, cơ sở.

Tại Tọa đàm, đồng chí Phó Viện trưởng Nguyễn Đăng Khoa đã đưa ra một số dạng tranh chấp đất đai điển hình ở địa phương và những vướng mắc, bất cập nảy sinh trong quá trình giải quyết vụ án, cụ thể là:

 

1. Về giao dịch dân sự bị tuyên vô hiệu trong trường hợp chưa hoàn thiện thủ tục giấy tờ quyền sử dụng đất, bên mua đã xây nhà kiên cố hoặc trồng cây lâu năm thì buộc thực hiện hợp đồng hay tuyên vô hiệu. Theo đó, có một số trường hợp xảy ra như: Nếu khi giao dịch có dấu hiệu gian dối thì Tòa án tuyên vô hiệu; nếu không có dấu hiệu gian dối mà đất đã được chuyển giao thì Tòa án buộc tiếp tục thực hiện hợp đồng và phải làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; nếu trường hợp giá cả tăng, bên bán không muốn bán nữa thì Tòa án tuyên một thời hạn để tiếp tục thực hiện hợp đồng, nếu không thực hiện trong thời gian đó thì Tòa án mới tuyên vô hiệu...

 

2. Giải quyết các tranh chấp về thừa kế và chia tài sản chung là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất

 

Bên cạnh việc pháp luật nước ta quy định cá nhân, hộ gia đình có quyền được hưởng thừa kế quyền sử dụng đất và có quyền được khởi kiện để được yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác thì pháp luật cũng giới hạn quyền khởi kiện của đương sự trong vòng 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, hết thời hạn đó, đương sự sẽ mất quyền khởi kiện.

 

Nhưng thực tế có nhiều trường hợp sau khi hết thời hiệu khởi kiện 10 năm, các đương sự mới có yêu cầu chia di sản thừa kế. Như vậy, theo đúng quy định tại Điều 654 và Điều 154 của Bộ luật Dân sự thì đương sự đã hết quyền khởi kiện. Vậy, pháp luật sẽ giải quyết như thế nào với thời kỳ hậu của 10 năm, trong khi di sản thì vẫn còn và chưa được chia? Vấn đề đặt ra là ai sẽ được hưởng, ai sẽ là người quản lý di sản đó. Quyền và nghĩa vụ của họ đối với di sản ra sao? Giải quyết như thế nào đối với từng trường hợp cụ thể là người chết có để lại di chúc và người chết không để lại di chúc? Vấn đề này Bộ luật Dân sự năm 1995 và Bộ luật Dân sự năm 2005 chưa điều chỉnh đến. Nghị quyết số 02 ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn việc giải quyết hậu của quy định thời hạn 10 năm khởi kiện thừa kế nêu trên.

 

Bất cập, khó khăn trong công tác giải quyết các vụ án này hiện nay tại địa phương đó là trường hợp thuộc điểm A3: Một hoặc một số các đồng thừa kế yêu cầu chia di sản là quyền sử dụng đất và các tài sản trên đất do bố mẹ để lại nhưng đã hết thời hiệu 10 năm khởi kiện chia thừa kế, không có di chúc để lại, nhưng bên đang chiếm giữ tài sản cho rằng, di sản đã được bố mẹ phân chia và không đồng ý chia tài sản chung.

 

Thực tế hiện vẫn nay tồn tại hai cách hiểu về cách diễn đạt của Nghị quyết 02 tại các điểm A, A2, A3 tiểu mục 2.4 như sau:

 

+ Cách hiểu thứ nhất: Nếu hết thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế, người chết không để lại di chúc thì điều kiện cần và đủ để chia tài sản chung là:

 

- Các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế;

 

- Di sản vẫn còn và chưa chia.

 

+ Cách hiểu thứ hai: Nếu hết thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế, người chết không để lại di chúc thì điều kiện cần và đủ để chia tài sản chung là:

 

- Không có tranh chấp về hàng thừa kế, về quyền thừa kế giữa các đồng thừa kế với nhau.

 

- Cùng thừa nhận di sản chưa chia và có cùng văn bản thỏa thuận về việc đồng ý chia di sản.

 

- Các bên cùng đồng ý chia di sản nhưng không thống nhất về phần mỗi người được hưởng và yêu cầu Tòa án giải quyết.

 

- Nếu các đồng thừa kế hiện không chiếm giữ tài sản cùng đồng ý chia di sản, chỉ riêng người hiện đang chiếm giữ tài sản không đồng ý chia di sản thì cũng không đủ điều kiện chia tài sản chung.

 

Như vậy, cùng một vấn đề phân chia tài sản chung khi đã hết thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế nhưng Tòa án, Viện kiểm sát địa phương cũng có quan điểm khác nhau, Viện kiểm sát tối cao và Viện phúc thẩm cũng có quan điểm khác nhau.

 

Vì vậy, đây chính là một vấn đề thực tiễn cấp bách, đã dẫn đến tình trạng nhiều vụ án bị hủy đi hủy lại nhiều lần mà chưa giải quyết xong, gây bức xúc và mệt mỏi cho người dân, cần được quan tâm nghiên cứu, sửa đổi bổ sung Bộ luật Dân sự và Nghị quyết hướng dẫn kịp thời, nhanh chóng.

 

3. Vấn đề định giá tài sản là nhà và đất ở cấp phúc thẩm

 

Định giá tài sản đang là một vấn đề còn nhiều khúc mắc hiện nay. Thực tế là có nhiều vụ án, Hội đồng định giá tài sản ở cấp sơ thẩm định giá nhà và đất thấp hơn rất nhiều so với giá thực tế trên thị trường, cá biệt có trường hợp định giá bằng với khung giá của Nhà nước. Nhiều vụ án, các đương sự kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm định giá lại tài sản.

 

Đây là một vấn đề thực tế đang tồn tại hàng ngày tại địa phương rất cần được liên ngành cấp trên hướng dẫn áp dụng thống nhất.

 

Phát biểu tại tọa đàm, đồng chí Nguyễn Vũ Tuyết Mai, Trưởng phòng 5 của VKSND thành phố Hà Nội cho rằng: Kể từ khi có Nghị quyết số 02 ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì tình hình tranh chấp đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội ngày càng phức tạp hơn ở một số trường hợp sau: Thời điểm mở thừa kế thì những người có tài sản chung không tự thỏa thuận được thì Tòa án mới thụ lý giải quyết; biến tướng của vấn đề vay nợ qua giao dịch mua bán nhà đất và thực tế rất khó giải quyết vì không có bằng chứng, căn cứ để chứng minh việc vay nợ...

 

 

Đồng chí Nguyễn Vũ Tuyết Mai, Trưởng phòng 5 VKSND thành phố Hà Nội phát biểu tham luận

Báo cáo tham luận của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã nêu bật những nguyên nhân chủ yếu của các tranh chấp dân sự liên quan đến đất đai, nhà ở xảy ra trên địa bàn thành phố Hà Nội thường diễn ra gay gắt, khó hòa giải, giải quyết, bởi những nguyên nhân chủ yếu sau:

 

- Do pháp luật về nhà đất của Nhà nước ta thường xuyên thay đổi, mâu thuẫn, thiếu đồng bộ; chậm ban hành các văn bản quy phạm dưới luật hướng dẫn thi hành các Bộ luật dẫn tới nhận thức thiếu đồng bộ, gây khó khăn cho công tác kiểm sát giải quyết các dạng tranh chấp này.

 

- Nhận thức pháp luật của người dân còn hạn chế (đặc biệt là dân các huyện xa trung tâm Thủ đô); cá biệt có đối tượng vì lợi ích cá nhân cố tình vi phạm pháp luật.

 

- Chính quyền các cấp của thành phố chưa làm tốt công tác quản lý Nhà nước về nhà đất qua các thời kỳ với nhiều lý do khác nhau (do nhận thức của cán bộ làm công tác quản lý còn hạn chế dẫn đến áp dụng pháp luật không chính xác, đôi khi còn áp đặt ý chí chủ quan, nể nang, thiếu công bằng trong giải quyết tranh chấp; công tác lưu trữ hồ sơ, giấy tờ về nhà đất không đảm bảo, gây khó khăn cho công tác xét xử khi có tranh chấp; việc đo đạc cắm mốc giới của các cơ quan tham mưu thiếu chính xác; giải quyết tranh chấp ở cơ sở còn chậm…).

 

- Do tác động của quá trình đô thị hóa và cơ chế kinh tế thị trường: Đất đai ngày càng có giá; các chính sách liên quan như tài chính, thuế chưa theo kịp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội... do vậy, tranh chấp dân sự liên quan đến nhà đất liên tục phát sinh. Bên cạnh những nguyên nhân trên, thì những sai sót trong hoạt động tố tụng của các cơ quan tư pháp cũng làm cho các tranh chấp về đất đai kéo dài, phức tạp, chẳng hạn như: Việc Tòa án chuyển các bản án, quyết định đến Viện kiểm sát còn chậm; chưa hòa giải tại địa phương hoặc hòa giải thiếu thành phần theo quy định tại Điều 135 Luật Đất đai; án có giá ngạch nhưng không yêu cầu đương sự nộp dự phí có giá ngạch vẫn thụ lý, giải quyết (đối với vụ kiện có tranh chấp đòi tài sản tính được bằng giá trị theo quy định của Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án là án có giá ngạch, đáng lẽ Tòa án phải thu tiền tạm ứng án phí dân sự bằng 50% dự tính giá trị tài sản có tranh chấp, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chỉ thu tạm ứng án phí 200.000 đồng của nguyên đơn); xác định quan hệ pháp luật không chính xác; xác định không đúng hoặc thiếu người tham gia tố tụng; tống đạt các văn bản cho đương sự chưa hợp lệ; thu thập chứng cứ không đầy đủ, yêu cầu đương sự xuất trình chứng cứ không đúng đối tượng (ví dụ: Yêu cầu người không tham gia việc mua bán, chuyển nhượng nhà đất phải xuất trình giấy tờ mua bán nhà đất đó…); giải quyết án quá thời hạn luật định; Tòa án không xác minh các đương sự có bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm về đất đai hay không để công nhận nguồn gốc đất hợp pháp; đánh giá tài liệu, chứng cứ không đầy đủ, toàn diện, không đi vào đánh giá bản chất của vụ kiện nên cấp phúc thẩm phải sửa, hủy án hoặc tuyên bản án không phù hợp với thực tế, thiếu sự cụ thể, gây khó khăn cho công tác thi hành án; không đánh giá đúng công sức của người trông nom, duy trì tài sản, gây thiệt hại đến quyền lợi của đương sự; giải quyết vượt quá phạm vi yêu cầu của người khởi kiện; tính án phí không đúng hoặc không tính án phí có giá ngạch (nhiều nhất ở các vụ Tòa án ra quyết định công nhận thỏa thuận của các đương sự về tranh chấp nhà đất trong án hôn nhân và gia đình).

 

 

Đồng chí Lê Tất Hiếu, Phó Viện trưởng VKSND tỉnh Vĩnh Phúc phát biểu

Trong Báo cáo tham luận của đồng chí Lê Tất Hiếu, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã nêu một số vấn đề về thực tiễn áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp về đất đai như: Về thời hiệu khởi kiện liên quan đến tranh chấp đất đai, theo quy định tại khoản 3 Điều 159 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011, Điều 645 của Bộ luật Dân sự năm 2005, về thời hiệu khởi kiện về thừa kế và Điều 247 của Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định việc xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu thì các tranh chấp có liên quan đến đất đai có 4 thời hiệu khác nhau:

 

- Tranh chấp về quyền sử dụng đất: Không có thời hiệu

 

- Tranh chấp về hợp đồng liên quan đến đất đai: Thời hiệu là 2 năm

 

- Tranh chấp chia di sản thừa kế, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm

 

- Yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ của người chết để lại là 3 năm.

 

Riêng thời hiệu ba mươi năm đối với việc chiếm hữu bất động sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai thì không thể áp dụng đối với bất động sản là đất đai vì đất đai là thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu (Điều 5 Luật Đất đai). Trong thực tế, có trường hợp Toà án vận dụng thời hiệu theo Điều 247 Bộ luật Dân sự để xác nhận quyền sử dụng đất cho người chiếm hữu liên tục 30 năm là không đúng.

 

Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, Toà án vận dụng Điều 247 Bộ luật Dân sự để cộng nhận quyền sử dụng đất đối với người chiếm hữu đất liên tục 30 năm trở lên là đúng pháp luật và trong trường hợp này là công nhận quyền sử dụng đất chứ không phải quyền sở hữu, quyền sở hữu đất vẫn thuộc Nhà nước.

 

 

Đồng chí Phùng Văn Quang, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ phát biểu tham luận

Để áp dụng thời hiệu cho chính xác, trước hết phải xác định việc tranh chấp đất đó phát sinh từ mối quan hệ nào, có xác định được đúng mối quan hệ thì mới áp dụng được thời hiệu phù hợp. Theo chúng tôi, tranh chấp về quyền sử dụng đất để không áp dụng thời hiệu là tranh chấp cần xác định ai là người có quyền được sử dụng diện tích đất đang tranh chấp. Việc tranh chấp đó không phải phát sinh do hợp đồng (Hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho mượn…) và cũng không phải tranh chấp đất là di sản thừa kế. Tranh chấp này chủ yếu do việc lấn đất, chiếm đất, do giao, nhận đất từ cơ quan, tổ chức. Trong thực tế, có những vụ chỉ tranh chấp ranh giới, cột mốc, trụ cổng; cũng có trường hợp chỉ tranh chấp lối đi… thì đó có phải là tranh chấp quyền sử dụng đất hay không? Theo chúng tôi, những tranh chấp này đều là tranh chấp quyền sử dụng đất và không tính thời hiệu để khởi kiện.

 

Qua phân tích trên, có thể đi đến kết luận là: Chỉ có 3 loại tranh chấp liên quan đến đất đai có thời hiệu khởi kiện là: Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng; tranh chấp chia thừa kế và tranh chấp yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ người chết để lại. Các tranh chấp khác về đất đai đều là tranh chấp quyền sử dụng đất và không áp dụng thời hiệu.

 

Thực tế vận dụng còn khó khăn và có nhận thức khác nhau, chúng tôi đề nghị liên ngành tư pháp Trung ương cần có hướng dẫn thực hiện cụ thể vấn đề này.

 

Trong phần tham luận tại Tọa đàm, Lê Tất Hiếu, Phó Viện trưởng VKSND tỉnh Vĩnh Phúc cũng đã trao đổi cụ thể hơn một số nội dung như: Về vấn đề thừa kế đã hết thời hiệu và đề nghị kéo dài thời hiệu hoặc bỏ thời hiệu này; về vấn đề xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng trong việc giải quyết các vụ án về hôn nhân gia đình theo Luật Hôn nhân và gia đình; về vấn đề xác định lỗi và hậu quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng chuyển nhượng đất đai bị tuyên vô hiệu...

 

 

Đồng chí Vương Văn Bép, Phó Viện trưởng VKSND tỉnh Bắc Ninh phát biểu tham luận

Phát biểu tham luận Tọa đàm, đồng chí Phùng Văn Quang, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ nêu một số loại án nổi cộm về dân sự, tranh chấp trong hôn nhân gia đình mà Viện kiểm sát tham gia, đó là: Vấn đề thừa kế, chia tài sản thừa kế, chia tài sản chung còn có nhận thức chưa thống nhất nên làm cho việc giải quyết vụ án còn gặp nhiều khó khăn; do vấn đề định giá tài sản hiện nay còn chưa có hướng dẫn rõ ràng, cụ thể nên trong thực tiễn tại Phú Thọ đã có nhiều vụ án qua nhiều cấp xét xử vẫn bị hủy để xét xử lại, gây kéo dài thời gian giải quyết vụ án; vấn đề định giá tài sản để vay vốn ngân hàng trong thực tiễn có nhiều trường hợp việc định giá không minh bạch, không đúng giá trị thực tế của tài sản nên khi xảy ra tranh chấp đã gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án...

 

Sau giờ giải lao, đến phần tham luận của VKSND tỉnh Bắc Ninh tại tọa đàm đã nêu lên một số dạng tranh chấp liên quan đến đất đai, nhà ở trong đó nổi lên 2 dạng tranh chấp chủ yếu như:

 

+ Tranh chấp giữa những người sử dụng đất về ranh giới giữa các vùng đất được phép sử dụng và quản lý. Loại tranh chấp này thường do một bên tự ý thay đổi ranh giới hoặc hai bên không xác định được với nhau về ranh giới, một số trường hợp lấn chiếm luôn diện tích đất của người khác. Những trường hợp tranh chấp này xảy ra thường do ranh giới đất giữa những người sử dụng đất liền kề không rõ ràng, thường xảy ra với các trường hợp đất đai đã chuyển nhượng qua tay nhiều người hoặc do sai sót từ phía Cơ quan nhà nước trong quá trình đo đạc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

 

+ Tranh chấp đất đai liên quan đến cơ sở thờ tự, tôn giáo, tín ngưỡng...

 

Đồng chí Vương Văn Bép, Phó Viện trưởng VKSND tỉnh Bắc Ninh cũng nêu lên những khó khăn, vướng mắc trong về áp dụng các quy định của pháp luật cũng như khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng Nghị quyết số 02 ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC trong quá trình giải quyết các tranh chấp về đât đai, nhà ở... Đồng thời, đồng chí cũng đề nghị cần có hướng dẫn cụ thể về việc xác định thẩm quyền giải quyết đối với các loại tranh chấp về đất đai, nhà ở để việc giải quyết các vụ án trong thực tế đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.

 

 

Đồng chí Nguyễn Thị Huệ, Phó Trưởng phòng 5 VKSND tỉnh Bắc Giang phát biểu tham luận

Đồng thời, đồng chí Vương Văn Béc cũng đã nêu một số đề xuất, kiến nghị như: Cần tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến giải quyết các tranh chấp về nhà, đất; tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn và tổng kết rút kinh nghiệm việc áp dụng pháp luật; kiện toàn cơ cấu tổ chức, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức của cán bộ, Kiểm sát viên; tăng cường cơ sở vật chất cho ngành Kiểm sát nhân dân và hoàn thiện chế độ chính sách cho cán bộ, Kiểm sát viên...

 

Nội dung đáng chú ý trong phần tham luận của đồng chí Nguyễn Thị Huệ, Phó trưởng phòng 5 VKSND tỉnh Bắc Giang đó là những kinh nghiệm thực tiễn về công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc tranh chấp về đất đai, nhà ở, cụ thể như:

 

- Phải thường xuyên cập nhật thông tin về việc ban hành, điều chỉnh, thay đổi chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực này. Quá trình cập nhập thông tin là quá trình tích lũy kiến thức để nắm vững pháp luật, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, vận dụng vào giải quyết từng vụ, việc cụ thể được chính xác.

 

- Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, nghiên cứu kỹ nội dung các tài liệu, chứng cứ do hai bên đương sự cung cấp, giao nộp. Xác định rõ yêu cầu của người khởi kiện, người bị kiện để xác định cần phải đưa ai vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết vụ án được khách quan, đúng pháp luật; xác định việc thu thập, chứng cứ đã đầy đủ và đã đảm bảo về thủ tục tố tụng chưa… để từ đó có nhận xét, đánh giá đúng về yêu cầu của từng bên đương sự trên cơ sở đối chiếu với quy định của pháp luật, đề xuất giải quyết vụ án chính xác, đúng quy định của pháp luật. Quá trình nghiên cứu phải trích nội dung tài liệu, trích đúng, đủ, tránh việc trích lan man cả những nội dung không cần thiết và không trích mà sao chụp toàn bộ tài liệu từ hồ sơ gốc do Tòa án lập. Khi nghiên cứu hồ sơ phải thể hiện tính khách quan, chú trọng tất cả các tài liệu, chứng cứ do các bên cung cấp, liên quan đến yêu cầu của từng bên trong vụ án có vậy mới có quan điểm đúng đắn, phù hợp pháp luật.

 

 

Đồng chí Phạm Xuân Thắng, Kiểm sát viên VKSND tỉnh Hải Dương phát biểu tham luận

- Giải quyết vụ án tranh chấp đất đai, nhà ở thường liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác như Luật hôn nhân và gia đình, Bộ luật Dân sự, Luật Hành chính, kinh doanh thương mại… Do vậy, cần phải tích cực nghiên cứu, chịu khó tìm tòi, học hỏi để trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ nghề nghiệp bản thân mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của khâu công tác…

 

Ngoài ra, tại tọa đàm, đồng chí Nguyễn Thị Huệ cũng đã nêu lên một số khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết các vụ án dân sự liên quan đến việc hòa giải các tranh chấp về đất đai, nhà ở; tranh chấp về tài sản là đất, nhà ở trong các vụ án ly hôn của tỉnh Bắc Giang...

 

Đồng chí Phạm Xuân Thắng, Kiểm sát viên VKSND tỉnh Hải Dương phát biểu tham luận nêu rõ:  Trong những năm gần đây, tình hình tranh chấp đất đai có chiều hướng tiếp tục gia tăng, diễn biến phức tạp trong cả nước nói chung và tại tỉnh Hải Dương nói riêng. Nguyên nhân là do hệ thống pháp luật, chính sách của Nhà nước về đất đai trong từng giai đoạn lịch sử không ổn định, thiếu đồng bộ, chưa theo kịp cơ chế thị trường; đại bộ phận người dân, nhất là ở vùng nông thôn nhận thức pháp luật còn hạn chế, vẫn còn có quan niệm đất đai là của bố mẹ, cha ông, tổ tiên của mình để lại nên là tài sản của riêng mình. Bên cạnh đó, quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh chóng, xuất hiện nhiều khu đô thị mới, dự án mở đường và các dự án khác khiến nhu cầu sử dụng đất tăng lên, đẩy giá đất lên cao, các bên sau khi chuyển nhượng đã xảy ra tranh chấp khởi kiện ra Toà án để giải quyết. Các tranh chấp ở địa phương chủ yếu là: Tranh chấp quyền sử dụng đất, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp hợp đồng tặng, cho quyền sử dụng đất, tranh chấp chia thừa kế quyền sử dụng đất... Thực tế, trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự liên quan đến tranh chấp về đất đai trên địa bản tỉnh Hải Dương đã gặp không ít những khó khăn, vướng mắc, có nhiều quan điểm khác nhau khi áp dụng các quy định của pháp luật. Sau đây, tôi xin nêu ra một số vụ án hiện nay còn có quan điểm khác nhau trong quá trình giải quyết vụ án.

 

 Đồng chí Đỗ Thanh Bình, Phó Viện trưởng VKSND tỉnh Hưng Yên phát biểu tham luận

Đồng thời, trong phần tham luận của mình, đồng chí Phạm Xuân Thắng, Kiểm sát viên VKSND tỉnh Hải Dương cũng nêu lên một số vướng mắc trong việc áp dụng quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS về vấn đề ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa dân sự; về vấn đề thụ lý vụ án có yếu tố người nước ngoài...

 

Phần tham luận của đồng chí Đỗ Thanh Bình, Phó Viện trưởng VKSND tỉnh Hưng Yên nổi bật là những kinh nghiệm để làm tốt công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự nói chung, các tranh chấp mà đối tượng là đất đai, nhà ở nói riêng, đó là: Ngay sau khi Quốc hội thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 60/2011/QH12, Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên đã chỉ đạo Phòng nghiệp vụ xây dựng chuyên đề tập huấn triển khai thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi năm 2011 cho Viện kiểm sát hai cấp nhằm kịp thời triển khai đầy đủ những quy định mới đến toàn thể Lãnh đạo, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, chuyên viên làm công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự. Quá trình triển khai thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi); trong khi chờ hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên đã trao đổi, phối hợp với Toà án nhân dân tỉnh Hưng Yên để đi đến thống nhất về việc Viện kiểm sát tham gia kiểm sát việc giải quyết các vụ án mà Toà án đã thụ lý. Đồng thời, có văn bản chỉ đạo hướng dẫn các Viện kiểm sát nhân dẫn cấp huyện triển khai thực hiện. Sau khi nhận được bản Hướng dẫn tạm thời số 4163 ngày 28/12/2011 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên tiếp tục có văn bản yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, thành phố nghiên cứu, triển khai thực hiện những nội dung Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã hướng dẫn, chỉ đạo. Ngày 16/02/2012, Phòng kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự tiếp tục tham mưu cho Lãnh đạo Viện tổ chức hội nghị tập huấn chuyên đề “Thực trạng và một số kinh nghiệm trong hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất” cho hai cấp kiểm sát. Tại hội nghị tập huấn cán bộ, Kiểm sát viên hai cấp đã nêu ra nhiều ý kiến vướng mắc khi triển khai thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình thực hiện công tác kiểm sát.

 

Bên cạnh việc tổ chức các hội nghị tập huấn, ban hành các văn bản hướng dẫn chỉ đạo Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện triển khai thực hiện, Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tỉnh còn chỉ đạo Phòng nghiệp vụ có kế hoạch kiểm tra việc đối với các Viện kiểm sát cấp huyện, thành phố trong việc triển khai thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi. Đồng thời, Lãnh đạo Viện đã yêu cầu Phòng nghiệp vụ và Viện kiểm sát nhân dân các huyện, thành phố tổ chức các phiên toà rút kinh nghiệm công tác kiểm sát xét xử dân sự nhằm nâng cao trình độ, kỹ năng nghiệp vụ của Kiểm sát viên hai cấp, từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát trong thời gian tới.

 

Đồng chí Đỗ Thanh Bình, Phó Viện trưởng VKSND tỉnh Hưng Yên cũng nêu lên một số khó khăn, vướng mắc như việc giải quyết vấn đề tranh chấp thừa kế về nhà thờ họ.v.v.

Các bài viết khác

Luật sư tư vấn miễn phí

Gọi ngay
0902818158- 0906834543
0906834543
0902818158

Tin pháp luật

CÁC ĐỐI TÁC

  • Nhà Đất Phúc An Khang
  • The Diplomat
  • The NewYork Review of Book
  • CogitAsia
  • Reuters
  • Viet Studies
  • The NewYork Times
  • TIME
  • Bloomberg Bussiness