TIN TỨC

fanpage

Thống kê truy cập

  • Online: 7
  • Hôm nay: 154
  • Tháng: 1202
  • Tổng truy cập: 5245206
Chi tiết bài viết

Bình luận khoa học hình sự tập 4

ĐINH VĂN QUẾ

THẠC SĨ LUẬT HỌC - TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

 

BÌNH LUẬN BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999

PHẦN CÁC TỘI PHẠM

 

CHƯƠNG XVIII

CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TUÝ

 

NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 

LỜI GIỚI THIỆU

 

Bộ luật hình sự đã được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999, có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2000 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1999). Đây là Bộ luật hình sự thay thế Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào các ngày 28-12-1989, ngày 12-8-1991, ngày 22-12-1992 và ngày 10-5-1997.

Bộ luật hình sự năm 1999 không chỉ thể hiện một cách toàn diện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay, mà còn là công cụ sắc bén trong đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm hiệu lực quản lý của Nhà nước, góp phần thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

So với Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định mới về tội phạm và hình phạt. Do đó việc hiểu và áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội phạm và hình phạt là một vấn đề rất quan trọng. Ngày 17 tháng 2 năm 2000, Thủ tướng chính phủ  ra chỉ thị số 04/2000/CT-TTg về việc tổ chức thi hành Bộ luật hình sự đã nhấn mạnh: "Công tác phổ biến, tuyên truyền Bộ luật hình sự phải được tiến hành sâu rộng trong cán bộ, công chức, viên chức, chiến sỹ thuộc lực lượng vũ trang và trong nhân dân, làm cho mọi người năm được nội dung cơ bản của Bộ luật, nhất là những nội dung mới được sửa đổi bổ sung để nghiêm chỉnh chấp hành".

Với ý nghĩa trên, tiếp theo cuốn Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (phần chung); cuốn "Bình luận Bộ luật hình sự (phần riêng) về các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người”; cuốn “Bình luận Bộ luật hình sự (phần riêng) các tội xâm phạm sở hữu ” và cuốn “Bình luận Bộ luật hình sự (phần riêng) về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân và các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình ” Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản tiếp cuốn "BÌNH LUẬN BỘ LUẬT HÌNH SỰ (PHẦN CÁC TỘI PHẠM ) CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TUÝ" của tác giả Đinh Văn Quế - Thạc sỹ Luật học, Phó chánh toà Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao, người đã nhiều năm nghiên cứu, giảng dạy và cho công bố nhiều tác phẩm bình luận khoa học về Bộ luật hình sự và cũng là người trực tiếp tham gia xét xử nhiều vụ án các tội phạm về ma tuý.

Dựa vào các quy định của chương XVIII Bộ luật hình sự năm 1999, so sánh với các quy định của Bộ luật hình sự năm 1985, đối chiếu với thực tiễn xét xử các vụ án về ma tuý, tác giả đã giải thích một cách khoa học về các các tội phạm về ma tuý quy định tại chương XVIII Bộ luật hình sự, đồng thời tác giả cũng mạnh dạn nêu ra một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự ở nước ta.

 

Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

 MỞ ĐẦU

 

Trong những năm vừa qua, công tác phòng chống và kiểm soát ma tuý đã đạt được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, tình tình mua bán, vận chuyển, tàng trữ vẫn chưa giảm; tình hình nghiện hút, tiêm chích, hút hít và tổ chức sử dụng ma tuý đang diễn ra phức tạp, nhất là đối với tầng lớp thanh, thiếu niên. Ma tuý đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khoẻ, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm.

Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm chặn đứng và đẩy lùi tệ nạn này, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau, nên tệ nạn này vẫn đang là mối quan tâm lo lắng của toàn xã hội. Một trong những biện pháp nhằm đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma tuý là việc xử lý các hành vi phạm tội về ma tuý.

Chương XVIII Bộ luật hình sự năm 1999 quy định các tội phạm về ma tuý gồm 10 Điều tương ứng với 10 tội danh khác nhau. So với Chương VIIA (phần tội phạm) Bộ luật hình sự năm 1985, thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định ít hơn 4 Điều (Bộ luật hình sự năm 1985 có 14 Điều). Tuy có ít hơn 4 điều nhưng các hành vi phạm tội về ma tuý vẫn bị xử lý không sót một hành vi nào.

Các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với các tội phạm về ma tuý, nói chung không có gì thay đổi lớn, vì Chương VIIA Bộ luật hình sự năm 1985 là chương được sửa đổi bổ sung tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá IX ngày 10-5-1997 (có hiệu lực từ ngày 22-5-1997). Các quy định tại chương VIIA Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tương đối đầy đủ, các hành vi, các dấu hiệu định tội, định khung hình phạt. Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định một số tình tiết (đúng ra là cụ thể hoá một số tình tình tiết) như: Gây tổn hại nặng cho sức khoẻ, thì quy định cụ thể tỷ lệ thương tật là bao nhiêu %; điều chỉnh lại mức hình phạt trong từng khung hình phạt cho phù hợp với thực tiễn xét xử, nhất là hình phạt bổ sung. Một thay đổi lớn nhất đối với các tội phạm về ma tuý quy định tại chương XVIII Bộ luật hình sự năm 1999 so với chương VIIA Bộ luật hình sự năm 1985 là nhập bốn tội quy định các Điều 185c,185d,185đ và 185e thành một tội quy định tại Điều 194 với đầy đủ các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán và chiếm đoạt chất ma tuý, đồng thời quy định hình phạt bổ sung ngay trong từng điều luật mà không quy định thành một điều luật riêng như Bộ luật hình sự năm 1985 (Điều 185o). Việc nhập 4 điều thành một điều và quy định hình phạt bổ sung ngay trong cùng một điều luật đã làm cho chương XVIII Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ còn 10 điều so với 14 điều của Bộ luật hình sự năm 1985. 

Sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 được bổ sung chương VIIA, các cơ quan bảo vệ pháp luật ở trung ương cũng đã kịp thời ban hành Thông tư liên tịch số 01-1998/TTLT ngày 2 tháng 1 năm 1998 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ nội vụ và ngay sau đó các cơ quan trên lại ban hành Thông tư liên tịch số 02-1998/TTLT ngày 5 tháng 8 năm 1998 hướng dẫn áp dụng Chương VIIA quy định các tội phạm về ma tuý. Các hướng dẫn này bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng và các cán bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm về  ma tuý, các nội dung trong các Thông tư này vẫn còn giá trị tham khảo khi áp dụng các quy định tại chương XVIII Bộ luật hình sự năm 1999 đối với các tội phạm về ma tuý. 

Do pháp luật quy định các tội phạm về ma tuý trong từng thời ký có khác nhau nên nhất là từ khi Quốc hội bổ sung chương VIIA quy định các tội phạm về ma tuý có hiệu lực từ ngày 22-5-1997, thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những hành vi phạm tội về ma tuý trước ngày 22-5-1997 cần chú ý hiệu lực về thời gian. Mặt khác, trước và sau khi Quốc hội bổ sung Chương VIIA, các cơ quan chức năng như Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát  nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp có nhiều văn bản hướng dẫn áp dụng Bộ luật hình sự khi xử lý các hành vi phạm tội có liên quan đến ma tuý và mỗi văn bản đó cũng có nội dung khác nhau, cũng như hiệu lực thi hành cũng khác nhau nên việc áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự để xử lý đối với hành vi phạm tội về ma tuý cũng khá phức tạp.

Tuy nhiên, do những quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 đối với các tội phạm về ma tuý và các hướng dẫn áp dụng về tội phạm ma tuý vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu mà thực tiễn xét xử đặt ra. Mặt khác, dù không có thay đổi nhiều, nhưng các quy định của chương XVIII Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội phạm ma tuý có nhiều điểm nếu không được tìm hiểu thì khó có thể áp dụng đúng khi giải quyết các hành vi phạm tội về ma tuý.

Để góp phần tìm hiểu Bộ luật hình sự năm 1999, qua thực tiễn xét xử và tổng kết công tác xét xử các tội phạm về ma tuý, chúng tôi xin phân tích những vẫn đề có tính lý luận và thực tiễn nhằm gúp bạn đọc, đặc biệt là các cán bộ công tác trong các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử nắm được các dấu hiệu pháp lý cơ bản đối với các tội phạm về ma tuý được quy định tại Chương XVIII Bộ luật hình sự năm 1999 và những vấn đề áp dụng các quy định của Chương XVIII vào thực tiễn đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong tình hình hiện nay.

 

 PHẦN THỨ NHẤT

ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TUÝ

 

Các tội phạm về ma tuý được Nhà nước ta quy định từ rất sớm, nhưng trong từng giai đoạn, căn cứ vào tình hình kinh tế-xã hội cụ thể mà Nhà nước ban hành những văn bản thích hợp, phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.

Nếu vào đầu năm 1952 Chính phủ chỉ quy định việc xử lý đối với hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện, quy định khoanh vùng trồng cây thuốc phiện; người trồng cây thuốc phiện có nghĩa vụ nộp thuế bằng 1/3 số thuốc phiện nhựa, phần còn lại phải bán cho mậu dich quốc doanh; nghiêm cấm việc tàng trữ vận chuyển nhựa thuốc phiện, thì đến cuối năm 1952 Chính phủ quy định người có hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện, bị tịch thu thuốc phiện, bị phạt tiền đến năm lần trị giá thuốc phiện hoặc bị truy tố trước Toà án.

Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, ngày 15-9-1955  Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định 580-TTg quy định cụ thể những trường hợp phải đưa ra truy tố trước Toà án như: Buôn lậu thuốc phiện có nhiều người tham gia, có thủ đoạn gian dối; trị giá hàng phạm pháp trên 1.000.000 đồng; người buôn bán thuốc phiện nhỏ hoặc làm môi giới có tính chất thường xuyên, chuyên nghiệp sau khi đã bị phạt tiền nhiều lần mà còn vi phạm; hành vi vi phạm có liên quan đến nhân viên chính quyền hoặc bộ đội; đã quyết định phạt tiền của cơ quan Thuế vụ hoặc Hải quan. Để cụ thể hoá đường lối xét xử đối với hành vi phạm tội về thuốc phiện, ngày 29-3-1958 và ngày 7-5-1958, Bộ tư pháp ban hành Thông tư 635-VHH/HS và Thông tư số 33-VHH/HS hướng dẫn đừng lối truy tố, xét xử những hành vi buôn lậu thuốc phiện.

Sau khi đất nước thống nhất, ngày 25-3-1977  Hội đồng chính phủ đã ban hành Nghị định 76-CP về chống buôn lậu thuốc phiện; Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ ( nay là Bộ Công an) cũng đã ban hành các thông tư hướng dẫn áp dụng pháp luật khi điều tra, truy tố, xét xử tội phạm nói chung và tội phạm về buôn lậu thuốc phiện nói riêng.

Đến năm 1980, tình hình tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng ma tuý ở nước ta có chiều hướng gia tăng, dặc biệt là tình trạng mua bán, vận chuyển không chỉ có thuốc phiện mà còn các chất ma tuý khác qua biên giới vào nước ta và từ nước ta đi một số nước trên thế giới, do ảnh hưởng của các nước khu vực và các nước có biên giới với nước ta. Trước tình tình như vậy, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội Khoá VII đã thông quan Bộ luật hình sự ( Bộ luật hình sự năm 1985 ). Đây là Bộ luật đầu tiên của nước ta quy định tội phạm và hình phạt. Tuy nhiên, khi ban hành, Bộ luật hình sự năm 1985 mới có một điều quy định tội phạm về ma tuý (Điều 203 - Tội tổ chức sử dụng chất ma tuý ) và hai điều có liên quan đến ma tuý (Điều 97- Tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới và Điều 166 - Tội buôn bán hàng cấm). Nếu hành vi buôn bán ma tuý trong nước thì bị áp dụng Điều 166 Bộ luật hình sự, còn nếu buôn bán, vận chuyển ma tuý qua biên giới thì bị áp dụng Điều 97 Bộ luật hình sự. Còn lại các hành vi khác như tàng trữ, chiếm đoạt, sản xuất, sử dụng, vận chuyển trong nước... đối với các chất ma tuý chưa bị coi là tội phạm.

Do tình hình buôn bán, tàng trữ, vận chuyển ma tuý ngày càng gia tăng và diễn biến rất phức tạp, nếu chỉ áp dụng Điều 97 hay Điều 166 Bộ luật hình sự để xử lý các hành vi phạm tội về ma tuý thì không đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm này, nên ngày 28-12-1989, Quốc hội đã bổ sung Điều 96a quy định tội sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép chất ma tuý. Sau khi Bộ luật hình sự được sửa đổi bổ sung tình hình phạm tội về ma tuý vẫn không giảm mà càng gia tăng và diễn biến vô cùng phức tạp, quy định tại Điều 66a cũng không đủ đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống các tội phạm về ma tuý, mặc dù các cơ quan tiến hành tố tụng ở trung ương đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn xử lý hành vi có liên quan đến ma tuý nhưng cũng không thể ngăn chặn được tệ nạn này. Ngày 10-5-1997, một lần nữa Quốc hội lại sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự quy định hẳn một chương ( Chương VIIA) gồm 14 Điều, từ Điều 185a đến Điều 185(o) quy định tương đối đầy đủ các hành vi phạm tội mà thực tiễn đấu tranh đặt ra.

Việc Quốc hội quy định một Chương các tội phạm về ma tuý đã đáp ứng yêu cầu bức xúc của tình hình đấu tranh phòng chống ma tuý đang xảy ra. Tuy nhiên, trong quá trình soạn thảo Bộ luật hình sự năm 1999, qua thực tiễn xét xử, Ban soạn thảo đã phát hiện Chương VIIA Bộ luật hình sự năm 1985 có nhiều điểm không phù hợp, khó áp dụng trong thực tiễn xét xử, nên đã điều chỉnh lại cho phù hợp. Nhưng về cơ bản không có thay đổi gì lớn, trừ các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý được nhập lại thành một tội danh, còn lại cũng được cấu tạo trên cơ sở Chương VIIA Bộ luật hình sự năm 1985.

Các tội phạm về ma tuý quy định tại Chương XVIII Bộ luật hình sự năm 1999 có đặc điểm chung nhất là bất cứ hành vi phạm tội nào cũng trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến ma tuý. Cũng chính vì vậy, Chương XVIII có tên gọi “các tội phạm về ma tuý”.

Ma tuý, theo gốc Hán – Việt, có nghĩa là “làm mê mẩn”. Chất ma tuý lúc đầu dùng để chỉ các chất có tác dụng gây ngủ, gây mê; sau này khi khoa học phát triển con người tổng hợp được các chất tự nhiên có khả năng gây nghiện, thì chất ma tuý được hiểu là những chất có tính chất gây nghiện, có khả năng bị lạm dụng.

Cho đến nay, các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về ma tuý và chất ma tuý tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu. Có trường hợp người ta không cần đưa ra một định nghĩa về ma tuý, mà liệt kê ngay các chất ma tuý gồm: Các chất đã được xác định và có tên gọi riêng trong khoa học. Danh mục các chất ma tuý, tiền chất và các chất hoá học dùng để điều chế các chất ma tuý (bao gồm danh mục quy định tại Công ước quốc tế 1961, 1971, 1981) được ban hành theo Nghị định của Chính phủ Số 67/2001/NĐ-CP ngày 01 tháng 10 năm 2001( xem phụ lục).

 Như vậy, việc đưa ra một định nghĩa về ma tuý hay chất ma tuý chỉ có ý nghĩa trong việc nghiên cứu khoa học về chất ma tuý chứ không có ý nghĩa đối với việc xác định chất ma tuý. Khi cần xác định một chất có phải là ma tuý hay không chỉ cần đưa mẫu đến cơ quan giám định hoặc căn cứ vào Danh mục các chất ma tuý quy định tại Nghị định số 67 ngày 01-10-2001 của Chính phủ

Là tội phạm, nên tội phạm về ma tuý cũng có những đặc điểm chung như các tội phạm khác bao gồm: Tính nguy hiểm cho xã hội, tính trái pháp luật, tính có lỗi và tính chịu hình phạt. Tuy nhiên, đối với tội phạm về ma tuý có những đặc điểm riêng mà các tội phạm khác không có như:

Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm về ma tuý cao hơn so với các tội phạm khác được quy định trong Bộ luật hình sự (trừ các tội xâm phạm an ninh quốc gia), trong số 10 tội thì có 3 tội có mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình (khoản 4 Điều 193, khoản 4 Điều 194 và khoản 4 Điều 197); có 2 tội có mức cao nhất của khung hình phạt là chung thân (khoản 4 Điều 195, khoản 4 Điều 200 và khoản 4 Điều 201); có 12 trường hợp là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (khoản 3, khoản 4 Điều 193, khoản 3, khoản 4 Điều 194, khoản 3, khoản 4 Điều 195, khoản 3, khoản 4 Điều 197, khoản 3, khoản 4 Điều 200 và khoản 3, khoản 4 Điều 201) ; có 8 trường hợp là tội phạm rất nghiêm trọng (khoản 2 Điều 193, khoản 2 Điều 194, khoản 2 Điều 195, khoản 2 Điều 196, khoản 2 Điều 197, khoản 2 Điều 198, khoản 2 Điều 200 và khoản 2 Điều 201); có 10 trường hợp là tội phạm nghiêm trọng ( khoản 2 Điều 192, khoản 1 Điều 193, khoản 1 Điều 194, khoản 1 Điều 195, khoản 1 Điều 196, khoản 1 Điều 197, khoản 1 Điều 198, khoản 2 Điều 199, khoản 1 Điều 200 và khoản 1 Điều 201); chỉ có 2 trường hợp là tội phạm ít nghiêm trọng (khoản 1 Điều 192 và khoản 1 Điều 199). Cũng chính do đặc điểm này, mà trong thực tiễn xét xử thời gian qua, việc áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với người phạm các tội về ma tuý được Toà án nhân dân tối cao quán triệt trong toàn ngành. Tuy nhiên, cũng không ít Thẩm phán chưa nhạn thức đầy đủ tính chất nguy hiểm của các tội phạm về ma tuý và hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao, nên đã áp dụng hình phạt quá nhẹ đối với người phạm tội dẫn đến bản án bị kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm.

Đối với các vụ án mua bán, vận chuyển chất ma tuý với quy mô lớn, thường được người phạm tội tổ chức rất chặt chẽ thành những đường dây xuyên quốc gia, thậm chí từ nước ngoài vào Việt Nam nhưng lại không được tổ chức như các vụ án có tổ chức khác, không có người cầm đầu, chỉ huy mọi hoạt động của các đồng phạm khác, có vụ có rất đông người tham gia vào đường dây vận chuyển, mua bán ma tuý nhưng thông thường chỉ người thứ nhất biết ngươi thứ hai chứ không biết người thứ ba. Cũng chính vì đặc điểm này mà việc điều tra, khám phá các đường dây ma tuý rất khó khăn, không ít những vụ án sau khi xét xử mới phát hiện trong đường dây vận chuyển, mua bán ma tuý còn có nhiều người phạm tội khác, cá biệt có trường hợp trước khi thi hành án tử hình người bị kết án tử hình mới khai ra đồng phạm.

Một đặc điểm thường thấy trong các vụ án ma tuý lớn, người phạm tội thường móc lối với một số cán bộ trong các lực lượng chống ma tuý để vận chuyển, mua bán ma tuý trót lọt khó bị phát hiện và nếu có bị phát hiện thì chúng hy vọng sự bao che của các lực lượng này.

Đối với những hành vi mua bán có tính chất tiêu thụ, người phạm tội thường chia ma tuý thành những gói nhỏ (tép, chỉ...) mỗi gói là một liều để bán cho các con nghiện. Việc tổ chức tiêu thụ ma tuý cũng rất tinh vi, chúng thường sử dụng những địa điểm thuận lợi, có phân công người canh gác, khi các lực lượng chống ma tuý phát hiện thì chúng tẩu thoát dễ dàng.

Đối với hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, người phạm tội chủ yếu là những con nghiện rủ nhau, góp tiền, góp tài sản để mua để trao đổi lấy chất ma tuý sử dụng chung, ít có trường hợp người phạm tội đứng ra tổ chức như kiểu tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Đây cũng là đặc điểm mà thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp rất khó phân biệt giữa hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý với hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý. Không ít trường hợp có nhiều người cùng sử dụng trái phép chất ma tuý nhưng người này thì phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý còn người khác chỉ phạm tội sử dụng trái phép chất ma tuý.

Thực tiễn đấu tranh phòng chống các tội phạm về ma tuý trong thời gian qua còn cho thấy: Người có hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý ít khi bị bắt quả tang, nếu có bị bắt quả tang cũng chỉ bị bắt với trọng lượng chất ma tuý rất ít, còn chủ yếu là bắt được người sử dụng ma tuý và từ lời khai của người sử dụng ma tuý nên cơ quan điều tra mới xác minh truy tìm người bán chất ma tuý. Khi người mua chất ma tuý sử dụng bị bắt thì lập tức người bán chất ma tuý đã kịp tẩu tán chất ma tuý hoặc bỏ trốn nếu có nguy cơ bị lộ. Nhiều trường hợp, người mua chất ma tuý khai ra người bán chất ma tuý cho mình, nhưng nếu chỉ có lời khai của người mua chất ma tuý mà không có các nguồn chứng cứ khác mà người bán chất ma tuý không nhận tội thì cũng không kết luận được.

Mặc dù Chương XVIII Bộ luật hình sự quy định 10 tội danh về ma tuý, nhưng thực tiễn xét xử trong thời gian qua ở nước ta mới phát hiện một số hành vi tập trung vào một số tội như: Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý; tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý. Đối với các hành vi khác ít xảy ra, thậm chí chưa phát hiện được trường hợp phạm tội nào như: hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý hoặc hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý.

Các chất ma tuý được phát hiện ở nước ta chủ yếu là thuốc phiện, Hêrôin, Morphin, Cocain và một số chất ma tuý bán tổng hợp hoặc tổng hợp ở dạng ống hoặc viên được chế tạo ở một số nước được đưa trái phép vào Việt Nam như: Dolargan, Methadon, Methamphetamine, Suzusel...

Nắm chắc những đặc điểm của các tội phạm về ma tuý không chỉ giúp cho các các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có phương pháp phù hợp trong việc áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự vào việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về ma tuý, mà còn có tác dụng vận động nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý trong tình hình hiện nay, góp phần chặn đứng và đẩy lùi tệ nạn này.

  

 

 PHẦN THỨ HAI

CÁC TỘI PHẠM CỤ THỂ

 

1. TỘI TRỒNG CÂY THUỐC PHIỆN HOẶC CÁC CÂY KHÁC CÓ CHỨA CHẤT MA TUÝ

Điều 192.  Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma tuý 

1. Người nào trồng cây thuốc phiện, cây cô ca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy, đã được giáo dục nhiều lần, đã được tạo điều kiện để ổn định cuộc sống và đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.     

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức;

b) Tái phạm tội này.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ  một triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.

Định nghĩa: Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma tuý là hành vi trồng cây thuốc phiện, cây cô ca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy, đã được giáo dục nhiều lần, đã được tạo điều kiện để ổn định cuộc sống và đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma tuý  quy định tại Điều 192 Bộ luật hình sự là tội phạm đã được quy định tại Điều 185a Bộ luật hình sự năm 1985. Các dấu hiệu cấu thành tội phạm nói chung không có gì thay đổi lớn, chỉ quy định rõ hơn tình tiết đã bị xử phạt hành chính là xử phạt về hành vi trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma tuý (về hành vi này) chứ không phải bất cứ hành vi nào; hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật. Điều luật chỉ quy định hành vi trồng, nhưng lại đối với các loại ma tuý khác nhau, nên khi định tội cần chú ý:

- Nếu có hành vi trồng cây có chất ma tuý nào thì định tội theo chất ma tuý đó. Ví dụ: Trồng cây thuốc phiện thì chỉ định tội là “tội trồng cây thuốc phiện”, nếu trồng cây cô ca thì định tội là “tội trồng cây cô ca”, nếu trồng cây cần sa thì định tội là “ tội trồng cây cần sa” mà không định tội như điều luật ghi: “trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây có chứa chất ma tuý”. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng nếu trồng cấy thuốc phiện thì định tội là “trồng cây thuốc phiên” còn nếu trồng các cây khác có chất ma tuý thì định tội là “trồng cây có chứa chất ma tuý” mà không cần phải định tội là trồng cây cần sa hoặc trồng cây cô ca. Đây cũng là vấn đề thực tiễn xét xử còn vướng mắc nên việc áp dụng không thống nhất; có Toà án định tội trồng cây cần sa, có Toà án lại định tội là trồng cây khác có chứa chất mà tuý, có Toà án chỉ định tội là trồng cây có chất má tuý.

 - Nếu trồng nhiều loại cây có chất ma tuý khác nhau, thì định tội theo các cây có chất ma tuý đó. Ví dụ: Nguyễn Văn H vừa trồng cây thuốc phiện, vừa trồng cây cần sa, thì tội danh của H là “tội trồng cây thuốt phiện và cây cần sa”.

Về kỹ thuật lập pháp, nhà làm luật quy định tên tội là “trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma tuý” là để nhấn mạnh hành vi trồng cây thuốc phiện phổ biến ở nước ta, còn các loại cây khác có chứa chất ma tuý là nhằm đề phòng những trường hợp ở đâu đó có hành vi trồng các loại cây khác có chứa chất ma tuý như: cây cô ca, cây cần sa... Lẽ ra, chỉ cần quy định tội trồng cây có chứa chất ma tuý, còn cây đó là cây gì thì chỉ cần xác định là đủ, nhưng điều luật lại quy định “tội trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý” nên mới có tình trạng lúng túng khi phải định tội danh cho hành vi trồng cây có chứa chất mà tuý mà không phải là cây thuốc phiện. Hy vọng rằng, khi Bộ luật hình sự 1999 được sửa đổi bổ sung, vấn đề này sẽ được đưa ra thảo luận và quyết định. Theo chúng tôi, chỉ cần quy định “tội trồng cây có chứa chất ma tuý”

A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm

Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma tuý cũng phải đảm bảo các yếu tố (điều kiện) cần và đủ như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma tuý, chỉ những người sau đây mới có thể là chủ thể của tội phạm này:

Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma tuý, vì theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma tuý khoản 1 là tội ít nghiêm trọng, khoản 2 là tội nghiêm trọng.

Nói chung chủ thể của tội phạm này là bất kỳ, nhưng chủ yếu là đồng bào sinh sống ở các vùng cao, nơi có điều kiện trồng được cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý.

2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm

Khách thể của tội trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý là chế độ quản lý của Nhà nước về việc trồng cây thuốc phiện hoặc các cây có chứa chất ma tuý. Nếu hiểu một cách máy móc thì dễ lầm tưởng rằng, Nhà nước có cho phép một số đối tượng được trồng cây thuốc phiện hoặc hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý, nhưng thực tế không phải như vậy. Cho đến nay, trong các văn bản của Đảng và Nhà nước ta không có chỗ nào quy định cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý. Việc cây thuốc phiện còn được trồng ở nước ta hiện nay là do truyền thống lâu đời của một số đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng cao, nay Đảng và Nhà nước ta có chính sách vận động bà con từ bỏ việc trồng cây thuốc phiện và có chính sách hỗ trợ để đồng bào chuyển sang trồng các loại cây lương thực, cây ăn quả và các loại cây khác, chứ không phải quy hoạch lại việc trồng cây thuốc phiện. Vì vậy, khi nói chế độ quản lý của Nhà nước về việc trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý là việc Nhà nước có chính sách để loại bỏ việc trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý.

Đối tượng tác động của tội phạm này là cây có chứa chất ma tuý như cây thuốc phiện, cây cô ca, cây cần sa...

Cây thuốc phiện còn có tên khác là Á phiện-Opium, cây Anh Túc, còn tên là tinh là Papaver Somniferum L. Có tới hơn một trăm loài thuộc giống Papaver, nhưng chỉ có 2 loại có khả năng sản xuất Morphine, đó là Papaver Somniferum và Papaver setigerum D.C. Cây thuốc phiện mọc ở vùng địa Trung Hải từ năm 300 trước Công nguyên và sau đó dần dần được trồng ở một số nước trên thế giới vùng Lưỡi Liềm Vàng và Tam giác Vàng, ở nước ta cây thuốc phiện chủ yếu được trồng ở các tỉnh: Sơn La, Lào Cai, Nghệ An, Lai Châu, Hà Giang, Thanh Hoá, Yên Bái, Hoà Bình, Cao Bằng1.

Cây cô ca có tên la tinh là Erythroxylon norogranatense thường mọc ở các nước Nam Mỹ. Cocarine là một chất tự nhiên được chiết xuất từ cây co ca.2

Cây cần sa (bồ đà) là loại thực vật có tên la tinh là Canabissativa L. Cây cần sa có thể mọc được ở các vùng khí hậu nhiệt độ cao, vùng nhiệt đới gió mùa Nam Mỹ, vùng Carribians, Châu Phi, Nam Á, Đông Nam Á.3 

Cây cô ca và cây cần sa hầu như không thấy trồng ở nước ta, có lẽ cũng chính vì thế mà nhà làm luật chỉ quy định tội trồng cây thuốc phiện, còn việc quy định thêm các cây khác có chứa chất ma tuý là nhằm đề phòng ở nơi nào đó có trồng các cây cô ca hoặc cây cần sa thì không sợ bị lọt tội phạm.

Ngoài cây thuốc phiện, cây cô ca, cây cần sa đang được trồng ở các nước trên thế giới và trên lãnh thổ nước ta, chưa có tài liệu nào cho thấy còn những cây khác có chứa chất ma tuý. Tuy nhiên, nhà luật vẫn quy định các cây khác có chứa chất ma tuý để phòng ngừa những trường hợp mà khoa học chưa phát hiện được.

3. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm

a. Hành vi khách quan.

Người phạm tội trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý chỉ có hành vi khách quan duy nhất là “trồng”. Hành vi này nhất thiết phải là hành động và được biểu hiện nhiều dạng khác nhau như: làm đất, gieo hạt, ươm cây, chăm bón. Một người có thể thực hiện hết các việc trong quá trình trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý, nhưng cũng có thể chỉ thực hiện một hoặc một số việc, nhưng đều với mục đích là nhằm trồng được cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý. Nếu vì lý do khách quan mà người trồng cây thuốc phiện hoặc cây khác có chứa chất ma tuý không thu hoạch được nhựa thuốc phiện như ý muốn thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trồng cây thuốc phiện hoặc cây khác có chứa chất ma tuý.

Tuy nhiên, cây thuốc phiện (cây anh túc) khi ra hoa và hoa anh túc cũng là một loại hoa đẹp, nếu người trồng cây thuốc phiện không nhằm mục đích thu hoạch được nhựa thuốc phiện, mà chỉ nhằm thu hoạch hoa để bán như các loài hoa khác thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trồng cây thuốc phiện, nhưng phải có biện pháp giáo dục để chấm dứt việc trồng cây thuốc phiện lấy hoa vì nó cũng là mầm mống của hành vi phạm tội nếu không kiểm soát chặt chẽ và trái với chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc loại bỏ việc trồng cây thuốc phiện.

Hành vi trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý chỉ cấu thành tội phạm khi hành vi này đã được giáo dục nhiều lần, đã được tạo điều kiện để ổn định cuộc sống và đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm. Các yếu tố này tuy không phải là hành vi khách quan nhưng lại là dấu hiệu rất quan trọng và nó cũng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý.

Đã được giáo dục nhiều lần là đã được cơ quan Nhà nước, tổ chức, cũng như những người có trách nhiệm ở địa phương vận động, thuyết phục, nhắc nhở từ hai lần trở lên về việc không được trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý hoặc phổ biến đường lối chính sách cũng như các quy định của pháp luật về việc cấm trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý4.

Đã được tạo điều kiện để ổn định cuộc sống là đã được hỗ trợ về vốn để sản xuất, giống cây trồng, vật nuôi hoặc đã được hướng dẫn về kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt cây ăn quả, cây công nghiệp, cây lương thực thay thế cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý5.

Đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm là trước đó đã có lần trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý và đã bị xử phạt một trong các hình thức xử phạt vi phạm hành chính, nhưng chưa hết hời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, nay lại trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý6.

Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy từ khi Bộ luật hình sự 1985 được sửa đổi và quy định các tội phạm về ma tuý thành một chương (Chương VIIA) từ Điều 185a đến Điều 185(o) chưa có trường hợp trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý bị truy cứu trách nhiệm hình sự. điều này cho thấy Nhà nước ta đã đầu tư và công tác vận động đồng bào từ bỏ việc trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý, đặc biệt là cây thuốc phiện của chính quyền và các đoàn thể ở địa phương đạt hiệu quả cao.

b. Hậu quả

Hậu quả của hành vi trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý gây ra là những thiệt hại vật chất và phi vật chất cho xã hội, nhưng chủ yếu là những thiệt hại phi vật chất như: làm cho chính sách xoá bỏ việc trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý của Nhà nước không thực hiện được hoặc làm cho tình trạng tái trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý đã được xoá bỏ. Những thiệt hại về vật chất cũng có thể xảy ra nhưng là những thiệt hại gián tiếp như gây thiệt hại đến ngân sách dành cho việc xoá bỏ việc trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý.

Hậu quả của hành vi trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Hậu quả có xẩy ra hay không, không có ý nghĩa định tội mà nó chỉ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.

4. Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm 

Người phạm tội thực hiện hành vi trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của hành vi trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý mặc dù đã được giáo dục nhiều lần, đã được tạo điều kiện để ổn định cuộc sống và đã bị xử phạt hành chính nhưng vẫn cố tình vi phạm. Như vậy đối với hành vi trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý chỉ có thể được thực hiện do cố ý trực tiếp. Không có trường hợp nào do cố ý gián tiếp.

B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

1. Phạm tội trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý không có các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt

Là trường hợp trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, là cấu thành cơ bản của tội phạm, được quy định tại khoản 1 Điều 192 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ sáu tháng đến ba năm tù, là tội phạm ít nghiêm trọng.

 So với khoản 1 Điều 185a Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này, nếu chỉ căn cứ vào hình phạt thì khoản 1 Điều 192 Bộ luật hình sự năm 1999 không nhẹ hơn và cũng không nặng hơn. Tuy nhiên, do khoản 1 Điều 192 Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định cụ thể tình tiết “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm” nên phải coi khoản 1 Điều 192 Bộ luật hình sự năm 1999 là quy định có lợi cho người phạm tội nên theo quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.

Cũng như đối với các tội phạm khác, khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 1 Điều 192 Bộ luật hình sự, Toà án phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự (từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất trong khung hình phạt ( dưới sáu tháng tù), nhưng không được dưới ba tháng tù. Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo. Nói chung, đối với người phạm tội trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 192 Bộ luật hình sự nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì nên cho họ được hưởng án treo, không nên phạt tù giam vì có như vậy mới có thể giáo dục họ từ bỏ việc trồng cây thuốc phiện.

2. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 192 Bộ luật hình sự

a. Có tổ chức

 Cũng như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý có tổ chức là trường hợp có nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch kế hoạch để thực hiện hành vi trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu.

 

Trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý có tổ chức là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia, trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu.

Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý như: Khởi xướng ra việc trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý; phân công nhiệm vụ cho những người đồng phạm khác; điều hành, phối hợp hành vi của những người đồng phạm khác để đạt được mục đích chung là trồng được cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý.

Người thực hành là người trực tiếp thực hiện hành vi trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý như: làm đất, gieo hạt, chăm bón, thu hoạch.

Người xúi dục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý như: vận động người khác không thực hiện chủ trương xoá bỏ trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý của Đảng và Nh&

Các bài viết khác

Luật sư tư vấn miễn phí

Gọi ngay
0902818158- 0906834543
0906834543
0902818158

Tin pháp luật

CÁC ĐỐI TÁC

  • Nhà Đất Phúc An Khang
  • The Diplomat
  • The NewYork Review of Book
  • CogitAsia
  • Reuters
  • Viet Studies
  • The NewYork Times
  • TIME
  • Bloomberg Bussiness